Đổi mới cơ chế hoạt động, cơ chế tài chính và tiền lương đối với các đơn vị sự nghiệp công lập - Tác giả: ThS. Nguyễn Quang Dũng

16/03/2016 12:41

Đổi mới cơ chế hoạt động, cơ chế tài chính và tiền lương đối với các đơn vị sự nghiệp công lập


ThS. Nguyễn Quang Dũng - Vụ Tiền Lương, Bộ Nội vụ

Tạp chí Tổ chức nhà nước, Bộ Nội vụ.


Khu vực sự nghiệp dịch vụ công có vai trò quan trọng trong việc cung cấp các dịch vụ thiết yếu cơ bản cho nhân dân, bảo đảm phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Số lượng người làm việc trong khu vực sự nghiệp công và quỹ lương chiếm tỷ lệ lớn nhất trong tổng số đối tượng hưởng lương và trợ cấp từ ngân sách nhà nước, nên việc đổi mới cơ chế hoạt động, cơ chế tài chính và tiền lương đối với các đơn vị sự nghiệp công lập có vai trò đặc biệt quan trọng và có tính quyết định đối với quá trình cải cách tiền lương ở nước ta.

Description: http://tcnn.vn/uploads/resources/truonghq/images/anh4(1).jpg

Ảnh minh họa. Nguồn: internet

  1. Thực trạng trả lương đối với viên chức trong các đơn vị sự nghiệp công lập 

      - Theo quy định hiện hành của Nhà nước, tiền lương của viên chức làm việc trong các đơn vị sự nghiệp công lập bao gồm: 

      Tiền lương theo bậc trong chức danh nghề nghiệp (trước đây gọi là ngạch viên chức) được tính theo mức lương cơ sở nhân với hệ số lương theo bậc trong chức danh nghề nghiệp được xếp. Các chế độ phụ cấp lương như phụ cấp chức vụ lãnh đạo, phụ cấp thâm niên vượt khung, phụ cấp trách nhiệm công việc, phụ cấp ưu đãi theo nghề, phụ cấp thâm niên nghề, phụ cấp thu hút, phụ cấp đặc biệt, phụ cấp khu vực, phụ cấp kiêm nhiệm chức danh lãnh đạo đứng đầu đơn vị khác,… Trong đó, phụ cấp ưu đãi theo nghề đối với một số ngành cao nhất bằng 70% mức lương hiện hưởng cộng phụ cấp chức vụ lãnh đạo và phụ cấp thâm niên vượt khung (nếu có). 

      Tiền lương theo bậc trong chức danh nghề nghiệp và các chế độ phụ cấp lương được quy định tại Nghị định số 204/2004/NĐ-CP ngày 14/12/2004 của Chính phủ về chế độ tiền lương đối với cán bộ, công chức, viên chức và lực lượng vũ trang và các văn bản sửa đổi, bổ sung của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ. Hiện nay, cán bộ, công chức, viên chức làm việc ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn được thực hiện chính sách tại Nghị định số 116/2010/NĐ-CP ngày 24/12/2010 của Chính phủ nên tiền lương đã được cải thiện, khuyến khích cán bộ, công chức, viên chức đến công tác ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn.

      Tiền lương tăng thêm trên cơ sở thực hiện cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm trong thực hiện nhiệm vụ theo Nghị định số 115/2005/NĐ-CP ngày 5/9/2005 của Chính phủ (đối với các tổ chức khoa học và công nghệ) và Nghị định số 43/2006/NĐ-CP ngày 25/4/2006 của Chính phủ (đối với các đơn vị sự nghiệp công lập). Theo đó, đối với các đơn vị sự nghiệp tự bảo đảm một phần được tăng thêm không quá 2 lần tiền lương theo chế độ; đối với các đơn vị sự nghiệp tự bảo đảm toàn bộ chi thường xuyên thì không khống chế mức tiền lương tăng thêm. Trong thực tế ở những đơn vị sự nghiệp công có nguồn thu lớn thì thu nhập thực tế của viên chức cao hơn nhiều lần so với tiền lương theo bậc trong chức danh nghề nghiệp.

      Ngoài các khoản tiền lương nêu trên, viên chức trong các đơn vị sự nghiệp công lập còn được vận dụng các quy định của Nhà nước để bổ sung thu nhập như: tiền bồi dưỡng họp, tiền bồi dưỡng cho người chủ trì hoặc tham gia đóng góp xây dựng văn bản quy phạm pháp luật, đề án, đề tài, thù lao báo cáo viên hoặc giảng viên kiêm nhiệm, tiền hỗ trợ ăn trưa... Đối với những người giỏi, có trình độ chuyên môn, nghiệp vụ cao thì khoản thu nhập ngoài lương này lớn hơn nhiều so với tiền lương theo bậc trong chức danh nghề nghiệp.

      - Những hạn chế của chế độ tiền lương hiện hành đối với viên chức:

      Mức lương cơ sở dùng để tính lương theo bậc trong chức danh nghề nghiệp và các chế độ phụ cấp lương hiện hành đối với viên chức còn thấp, chưa bảo đảm đời sống của viên chức và thấp hơn nhiều so với mức lương tối thiểu vùng của khu vực doanh nghiệp. Cụ thể, theo quy định tại Nghị định số 182/2013/NĐ-CP ngày 14/11/2013 của Chính phủ quy định mức lương tối thiểu vùng đối với người lao động làm việc ở doanh nghiệp, hợp tác xã, tổ hợp tác, trang trại, hộ gia đình, cá nhân và các cơ quan, tổ chức có thuê mướn lao động, thì từ ngày 01/01/2014 mức lương tối thiểu vùng I là 2,70 triệu đồng/tháng; vùng II là 2,40 triệu đồng/tháng; vùng III là 2,10 triệu đồng/tháng; vùng IV là 1,90 triệu đồng/tháng. Trong khi đó, mức lương cơ sở từ ngày 01/7/2013 áp dụng đối với cán bộ, công chức, viên chức là 1,15 triệu đồng/tháng, bằng 50,5% bình quân mức lương tối thiểu vùng của khu vực doanh nghiệp. 

      Việc quản lý, đánh giá và trả lương đối với viên chức chuyên môn nghiệp vụ còn chủ yếu dựa vào bằng cấp đào tạo và thâm niên công tác, chưa theo yêu cầu vị trí việc làm, chưa gắn với kết quả thực hiện nhiệm vụ của vị trí việc làm đảm nhận. Trong thực tế, không ít đơn vị diễn ra tình trạng người có mức lương thấp hơn lại làm được nhiều việc hoặc làm tốt hơn những phần việc của người có mức lương cao hơn.

Việc giải quyết trước một bước về phụ cấp đối với một số đối tượng có tác dụng bổ sung thu nhập, động viên được một bộ phận viên chức ở một số ngành, nghề nhưng lại tạo ra phát sinh bất hợp lý mới như: các ngành, nghề chưa được hưởng phụ cấp ưu đãi theo nghề cũng đề nghị được hưởng phụ cấp hoặc các ngành đã được hưởng phụ cấp thì đề nghị nâng mức hưởng phụ cấp cao hơn, tạo ra tâm lý so sánh giữa các ngành, nghề,... 

      Cơ chế quản lý tiền lương của khu vực sự nghiệp còn gắn với cơ chế quản lý hành chính nhà nước đã làm cho hoạt động sự nghiệp bị hành chính hóa (như ngân sách nhà nước cấp hoặc hỗ trợ theo biên chế được giao,...), hạn chế tính chủ động, tự chủ tài chính của các đơn vị sự nghiệp, làm tăng biên chế và quỹ lương của khu vực này. Việc đổi mới cơ chế hoạt động, cơ chế tài chính của khu vực sự nghiệp công lập còn chậm, nặng về tư duy bao cấp, chưa thực sự đổi mới cơ chế tài chính, tiền lương đối với đơn vị sự nghiệp công lập theo hướng hạch toán thu - chi (không vì mục đích lợi nhuận). Kinh phí hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công lập ở địa phương, đặc biệt là ở cấp huyện chủ yếu vẫn do ngân sách nhà nước cấp, tỷ lệ đơn vị sự nghiệp tự bảo đảm kinh phí chi thường xuyên còn thấp.

      Cơ chế quản lý tiền lương đối với khu vực sự nghiệp còn nhiều bất cập, chưa thực sự cải cách cơ chế hoạt động, tài chính và tiền lương của khu vực này để tạo ra động lực phát triển mạnh mẽ, đáp ứng nhu cầu của nhân dân trong tình hình mới. Việc thực hiện chính sách xã hội hóa chưa được đẩy mạnh, chưa huy động được nhiều nguồn lực ngoài ngân sách nhà nước cho phát triển giáo dục, đào tạo, khoa học, công nghệ, văn hóa, giải quyết các vấn đề xã hội, môi trường. 

      2. Quan điểm của Đảng và Nhà nước về đổi mới cơ chế quản lý tiền lương đối với khu vực sự nghiệp công lập

      Kế thừa những quan điểm của Đảng tại Kết luận số 21-KL/TW ngày 07/8/2013 của Hội nghị Trung ương bảy khóa XIII, Kết luận số 20-KL/TW ngày 28/01/2008 của Hội nghị Trung ương sáu khóa X, Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI đã kết luận: "Cải cách chính sách tiền lương phải có quyết tâm chính trị cao trong việc ban hành và thực hiện chính sách, nhất là đối với khu vực hành chính và sự nghiệp công; cơ cấu lại ngân sách nhà nước, nhất là chi đầu tư công, kể cả đầu tư vào doanh nghiệp nhà nước; kiểm soát chặt chẽ và phấn đấu giảm đối tượng hưởng lương và phụ cấp từ ngân sách nhà nước; thực hiện trả lương theo vị trí việc làm, nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động công vụ; quản lý chặt chẽ biên chế gắn với cải cách hành chính, sắp xếp, kiện toàn tổ chức bộ máy"; "Đối với khu vực sự nghiệp công, cần đổi mới cơ chế hoạt động, cơ chế tài chính và tiền lương gắn với kết quả hoạt động của đơn vị, có phân biệt từng loại đơn vị theo Kết luận Hội nghị Trung ương 6 (khóa X); thực hiện cơ chế đặt hàng, giao nhiệm vụ, giao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm cho đơn vị và người đứng đầu".

Hội nghị Trung ương bảy (khóa XI) đã ban hành Kết luận số 63-KL/TW ngày 27/5/2013, trong đó nêu rõ: "Tiếp tục quán triệt và kiên trì thực hiện các quan điểm, nguyên tắc, mục tiêu và định hướng về cải cách chính sách tiền lương, bảo hiểm xã hội và trợ cấp ưu đãi người có công đã ghi trong Nghị quyết Hội nghị Trung ương 7 khóa VIII và các Kết luận Hội nghị Trung ương 8 khóa IX, Hội nghị Trung ương 6 khóa X và Hội nghị Trung ương 5 khóa XI. Trên cơ sở đó, thống nhất nhận thức trong Đảng, trong xã hội và có quyết tâm chính trị cao trong việc ban hành và thực hiện chính sách, nhất là việc đổi mới cơ chế hoạt động, cơ chế tài chính và tiền lương của khu vực sự nghiệp công lập phù hợp với kinh tế thị trường".  

      Luật Viên chức có hiệu lực từ ngày 01/01/2012 quy định "Tiếp tục đổi mới cơ chế hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công lập theo hướng tự chủ, tự chịu trách nhiệm, thực hiện hạch toán độc lập; tách chức năng quản lý nhà nước của bộ, cơ quan ngang bộ với chức năng điều hành của các đơn vị sự nghiệp công lập" (khoản 3 Điều 10); quyền của viên chức về tiền lương tại Điều 12 "được trả lương tương xứng với vị trí việc làm, chức danh nghề nghiệp, chức vụ quản lý và kết quả thực hiện công việc hoặc nhiệm vụ được giao; được hưởng phụ cấp và chính sách ưu đãi trong trường hợp làm việc ở miền núi, biên giới, hải đảo, vùng sâu, vùng xa, vùng dân tộc thiểu số, vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn hoặc làm việc trong ngành nghề có môi trường độc hại, nguy hiểm, lĩnh vực sự nghiệp đặc thù".

      3. Một số giải pháp cần triển khai thực hiện

      Để thực hiện thắng lợi các định hướng của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, trong thời gian tới cần triển khai thực hiện đổi mới cơ chế hoạt động, cơ chế tài chính và tiền lương đối với các đơn vị sự nghiệp công lập.

Một là, tăng cường tuyên truyền để nâng cao nhận thức trong Đảng và toàn hệ thống chính trị về ý nghĩa, vai trò của đổi mới cơ chế hoạt động, cơ chế tài chính và tiền lương đối với khu vực sự nghiệp công lập. Phải xác định đây là khâu đột phá và cần có quyết tâm chính trị cao trong việc ban hành cơ chế, chính sách và tổ chức thực hiện.  

      Hai là, phân định rõ loại dịch vụ do các đơn vị sự nghiệp công lập thực hiện; loại dịch vụ do các đơn vị ngoài công lập thực hiện; loại dịch vụ do các đơn vị công lập và ngoài công lập cùng thực hiện. Có chính sách khuyến khích phát triển số lượng và nâng cao chất lượng các dịch vụ công; tạo môi trường bình đẳng không phân biệt đơn vị sự nghiệp công lập và ngoài công lập trong việc cung cấp dịch vụ cho người dân.

      Ba là, xác định khung giá, phí các dịch vụ sự nghiệp công lập, từng bước tính đủ tiền lương, chi thường xuyên theo lộ trình, phù hợp với thu nhập của người dân. Xây dựng giá dịch vụ sự nghiệp công theo 3 mức: 1) Mức giá tính đủ tiền lương; 2) Mức giá tính đủ tiền lương và chi phí quản lý; 3) Mức giá tính đủ lương, chi phí quản lý và khấu hao tài sản cố định. Trên cơ sở đó, phân loại các đơn vị sự nghiệp để thực hiện theo 3 mức giá cho phù hợp. Các đối tượng thụ hưởng phải chi trả theo giá, phí dịch vụ. Nhà nước bảo đảm thực hiện chính sách hỗ trợ trực tiếp cho người có công, người nghèo, đồng bào dân tộc thiểu số và một số đối tượng còn khó khăn để được tiếp cận và thụ hưởng các dịch vụ sự nghiệp công cơ bản thiết yếu, tạo sự đồng thuận trong xã hội.

      Bốn là, đối với các đơn vị sự nghiệp cung cấp những dịch vụ sự nghiệp công có đủ điều kiện, trước hết là các đơn vị sự nghiệp kinh tế, thực hiện cơ chế hoạt động theo mô hình doanh nghiệp và từng bước cổ phần hóa theo quy định. Thực hiện mô hình hợp tác công tư trong cung cấp dịch vụ công theo hướng Nhà nước đầu tư xây dựng hạ tầng cơ sở và cho doanh nghiệp thuê lại với giá tính đủ để duy tu, bảo dưỡng.

      Năm là, thực hiện cơ cấu lại và đổi mới phương thức đầu tư, cấp phát ngân sách nhà nước theo hướng: ngân sách nhà nước bảo đảm kinh phí hoạt động thường xuyên đối với các đơn vị sự nghiệp công lập được Nhà nước giao nhiệm vụ cung cấp dịch vụ sự nghiệp công ở các vùng có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, vùng miền núi, biên giới và hải đảo. Từng bước chuyển từ việc giao dự toán ngân sách cho các đơn vị cung cấp dịch vụ sự nghiệp công lập như hiện nay sang thực hiện phương thức "đặt hàng", "mua" dịch vụ.

      Sáu là, thực hiện đổi mới cơ chế tài chính đối với nhóm các đơn vị sự nghiệp công lập cung cấp các dịch vụ sự nghiệp công có khả năng xã hội hoá cao, tự đảm bảo toàn bộ chi phí hoạt động (các trường đại học, bệnh viện và một số cơ sở dạy nghề) theo hướng: giao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm đồng bộ cả về tổ chức thực hiện nhiệm vụ, nhân lực, tài chính, tài sản khi cung cấp dịch vụ gắn với nhu cầu của xã hội; được quyền quyết định thu giá dịch vụ trên cơ sở khung giá tính đủ các chi phí hợp lý (theo lộ trình). Căn cứ kết quả hoạt động, đơn vị quyết định tiền lương cụ thể chi trả cho viên chức và người lao động phù hợp với nguồn thu dịch vụ của đơn vị.

Thực hiện minh bạch hóa các hoạt động liên doanh, liên kết của các đơn vị sự nghiệp công lập; khắc phục tình trạng công - tư lẫn lộn; đổi mới cơ chế phân phối theo hướng vừa đảm bảo quyền lợi của người lao động vừa có tích lũy để tái đầu tư tăng cường cơ sở vật chất của đơn vị sự nghiệp công lập.

Bảy là, quy định và thực hiện lộ trình đổi mới cơ chế đối với các đơn vị sự nghiệp công lập; nghiên cứu để thực hiện khoán ổn định kinh phí hỗ trợ của Nhà nước trong một số năm đối với các đơn vị sự nghiệp công lập.

Tám là, hoàn thiện thể chế về cơ chế tự chủ về thực hiện nhiệm vụ và tổ chức bộ máy đối với các đơn vị sự nghiệp công lập:

      - Tiếp tục đẩy mạnh phân công, phân cấp, giao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm về thực hiện nhiệm vụ, tổ chức bộ máy và số người làm việc cho các đơn vị sự nghiệp công lập. Quy định rõ thẩm quyền và trách nhiệm của người đứng đầu trong quản lý và điều hành đơn vị sự nghiệp; quy định và thực hiện cơ chế giám sát, kiểm tra trách nhiệm của người đứng đầu đơn vị sự nghiệp công lập trong việc thực hiện thẩm quyền.

      - Đổi mới cơ chế quản lý đội ngũ viên chức phải bảo đảm tính kế thừa và phát triển, thích ứng với việc thực hiện cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm của các đơn vị sự nghiệp công lập, phù hợp với các quy luật của nền kinh tế thị trường, bảo đảm tính cạnh tranh với khu vực ngoài công lập, thu hút người có tài năng, có trình độ cao tham gia vào đội ngũ viên chức để nâng cao chất lượng phục vụ người dân trong các lĩnh vực.

Chín là, hoàn thiện thể chế về cơ chế đặt hàng, mua hàng, giao nhiệm vụ cung ứng dịch vụ sự nghiệp công:

      - Xây dựng và ban hành hệ thống định mức kinh tế - kỹ thuật và tiêu chí, tiêu chuẩn của từng loại hình dịch vụ sự nghiệp công để làm căn cứ đặt hàng, giao nhiệm vụ.

      - Đổi mới cơ chế tính giá đặt hàng sản phẩm, dịch vụ sự nghiệp công. Nhà nước quy định giá hoặc khung giá sản phẩm, dịch vụ đối với các loại dịch vụ cơ bản, có vai trò thiết yếu đối với xã hội; từng bước tính đúng, tính đủ các chi phí hợp lý trong giá dịch vụ sự nghiệp, phù hợp với thị trường và khả năng của ngân sách nhà nước; thực hiện có lộ trình việc xóa bỏ bao cấp qua giá, phí dịch vụ nhằm tăng tính cạnh tranh và đảm bảo lợi ích của các đơn vị cung ứng dịch vụ sự nghiệp công.

      Việc đổi mới cơ chế hoạt động, cơ chế tài chính và tiền lương đối với các đơn vị sự nghiệp công lập là vấn đề phức tạp, nhạy cảm và tác động đến đại đa số nhân dân. Vì vậy, cần thực hiện từng bước, có lộ trình hợp lý, nhất là giá dịch vụ sự nghiệp công. Do đó, phải có quyết tâm chính trị cao của các cấp, các ngành. Các cơ quan chức năng ở các cấp cần tham mưu cho cấp ủy đảng trong việc ban hành và triển khai các nghị quyết, chủ trương, kế hoạch và biện pháp cụ thể nhằm tạo chuyển biến về tư tưởng, nâng cao nhận thức của xã hội về sự cần thiết, tính cấp bách của việc đổi mới cơ chế hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công lập, đồng thời khuyến khích thu hút các thành phần kinh tế đầu tư phát triển dịch vụ sự nghiệp công để hướng tới việc cung cấp tốt hơn dịch vụ cho mọi tầng lớp nhân dân, bảo đảm cho các đối tượng chính sách xã hội và người nghèo được tiếp cận, thụ hưởng các dịch vụ cơ bản thiết yếu với chất lượng cao hơn./.


 




Share Post




Một số bài viết khác

- Tương quan giữa nhà nước và thị trường trong vận hành nền kinh tế ở một số nước châu Á: Hàm ý cho Việt Nam - Tác giả: PGS.TS. Đoàn Minh Huấn, TS. Vũ Xuân Bình

- Định hướng phát triển Logistic Việt Nam từ kinh nghiệm quốc tế - Tác giả: TS. Hoàng Đình Minh, TS. Trương Bảo Thanh, Ths. Nguyễn Quang Minh

- Chính sách tài chính cho ứng phó với biến đổi khí hậu: Kinh nghiệm quốc tế và bài học cho Việt Nam - Tác giả: PGS.TS Hoàng Văn Hoan

- Đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Việt Nam giai đoạn 1988 - 2015: Thực trạng và vấn đề - Tác giả: Ngô Quang Trung

- Phát triển công nghiệp đi đôi với bảo vệ môi trường - Góc nhìn từ khu kinh tế Vũng Áng: Nghiên cứu trường hợp khu liên hợp gang thép của tập đoàn FORMOSA - Tác giả: TS. Phí Hùng Cường

- Khả năng huy động vốn của doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Việt Nam - Tác giả: TS. Hoàng Đình Minh, TS. Trương Bảo Thanh

- Vấn đề chuyển giá của các doanh nghiệp đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Việt Nam hiện nay - Tác giả: Ngô Quang Trung

- Phòng ngừa, khắc phục một số căn bệnh trong tư duy lãnh đạo, quản lý - Tác giả: PGS.TS. Đoàn Minh Huấn