Vấn đề chuyển giá của các doanh nghiệp đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Việt Nam hiện nay - Tác giả: Ngô Quang Trung
05/04/2016 10:40
Vấn đề chuyển giá của các doanh nghiệp đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Việt Nam hiện nay Ngô Quang Trung Học viện Chính trị Khu vực I Bài viết nghiên cứu một số hình thức chuyến giá cơ bản của các doanh nghiệp đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) tại Việt Nam và các doanh nghiệp FDI trên thế giới. Và, trên cơ sở phân tích các biểu hiện của hoạt động chuyển giá của các doanh nghiệp FDI tại Việt Nam để đề xuất các giải pháp tăng cường kiểm soát việc chuyển giá của các doanh nghiệp FDI trong thời gian tới. 1. Tóm lược về FDI tại Việt Nam Trải qua 25 năm hoạt động, vai trò của đầu tư trực tiếp nước ngoài đối với sự phát triển kinh tế xã hội của Việt Nam là khá rõ nét và đã được khẳng định: Hiện nay có 15.067 dự án FDI còn hiệu lực với tổng vốn đăng ký đạt 218,8 tỷ đô la Mỹ, vốn thực hiện khoảng 106 tỉ đô la Mỹ, trở thành nguồn bổ sung quan trọng cho tổng vốn đầu tư xã hội. Các dự án FDI góp phần tăng thu ngân sách, cải thiện cán cân thanh toán, là nguồn vốn bổ sung quan trọng cho công cuộc phát triển kinh tế, chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng hiện đại, nâng cao trình độ kỹ thuật và công nghệ, phát triển kinh tế thị trường ở Việt Nam, đưa nền kinh tế Việt Nam hội nhập với nền kinh tế thế giới, giải quyết công ăn việc làm, đào tạo nguồn nhân lực, nâng cao mức sống cho người lao động. Bên cạnh những đóng góp tích cực cho nền kinh tế, FDI cũng đã và đang bộc lộ những vấn đề gây ảnh hưởng tiêu cực đến tính bền vững của tăng trưởng. Gần đây, đã xuất hiện hàng loạt sự việc tác động xấu đến sự phát triển của Việt Nam, gây bức xúc cho dư luận xã hội, trong đó nổi bật lên là chuyển giá, trốn thuế, tạo nên tình trạng lỗ giả, lãi thật, gây thất thu ngân sách, tạo ra sự cạnh tranh không lành mạnh với các doanh nghiệp trong nước, tác động không tốt đến môi trường đầu tư.… 2. Một số hình thức chuyển giá cơ bản của các doanh nghiệp FDI tại Việt Nam và các doanh nghiệp FDI trên thế giới Hiện tượng chuyển giá hầu như đều xảy ra đối với các công ty đa quốc gia. Tại Việt Nam, hiện tượng chuyển giá đã xuất hiện và ngày càng nhiều tại các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài. Các hoạt động mua bán nội bộ của các công ty xuyên quốc gia, thường thông qua các giao dịch như: Giao dịch chuyển giao nội bộ tài sản cố định hữu hình hay tài sản cố định vô hình; mua bán nguyên vật liệu, thành phẩm, thông qua sự dịch chuyển nguồn vốn như cho vay và đi vay nội bộ; qua sự cung cấp các dịch vụ tài chính, tư vấn quản lý; qua các chi phí cho việc quảng cáo và chi phí nghiên cứu phát triển. Một số các doanh nghiệp FDI thuộc các chi nhánh các công ty xuyên quốc gia đã lợi dụng sơ hở trong công tác quản lý của nhà nước để thực hiện chuyển giá bằng cách “lỗ công ty con, lãi công ty mẹ”. Những thủ thuật lách thuế hay dấu hiệu chuyển giá phổ biến trong các giao dịch có yếu tố nước ngoài tại Việt Nam được thực hiện qua các hình thức sau: - Nâng giá trị tài sản vốn góp: Do Việt Nam chưa đủ năng lực và trình độ (đôi lúc không đủ điều kiện) để thẩm định giá các loại thiết bị, công nghệ chuyển vào khi thực hiện dự án đầu tư, nên thường bị bên đối tác nước ngoài định giá các máy móc, thiết bị cao hơn nhiều so với giá trị thực tế nhằm nâng giá trị vốn góp trong liên doanh của bên đối tác và nắm lấyquyền quản lý công ty hoặc tăng giá trị tài sản của doanh nghiệp (đối với danh nghiệp 100% vốn nước ngoài). Tình trạng nâng giá trị vốn góp theo thủ thuật này của các công ty xuyên quốc gia có thể làm thiệt hại đến ba đối tượng đó là bên liên doanh góp vốn Việt Nam, chính phủ Việt Nam và người tiêu dùng Việt Nam. Bên liên doanh bị thiệt trong phần vốn góp và dễ bị các công ty xuyên quốc gia thôn tính để biến doanh nghiệp liên doanh thành doanh nghiệp 100% khi không còn đủ tiềm lực tài chính, chính phủ Việt Nam bị thất thu thuế còn người tiêu dùng Việt Nam phải dùng những sản phẩm đắt hơn giá trị thực. - Mua nguyên, vật liệu và các yếu tố đầu vào sản xuất của công ty mẹ với giá cao và bán sản phẩm với giá thấp: Nhiều doanh nghiệp FDI ở Việt Nam chủ yếu là nhập khẩu các yếu tố đầu vào cho sản xuất của các công ty mẹ hoặc các công ty khác trong hệ thống các công ty xuyên quốc gia. Giá mua nguyên liệu của các hàng hóa, dịch vụ này thường cao hơn giá thực tế rất nhiều và bán sản phẩm cho công ty mẹ với giá thấp dẫn đến “lỗ công ty con, lãi công ty mẹ” - Chuyển giá thông qua việc chiếm lĩnh thị trường: Để có thể thâm nhập thị trường và chiếm lĩnh thị phần, các DN FDI tăng cường các hoạt động quảng cáo, quảng bá sản phẩm làm cho các DN giai đoạn này bị lỗ. Đặc biệt đối với các doanh nghiệp liên doanh, các công ty xuyên quốc gia dựa vào tiềm lực tài chính để thực hiện các hành vi chuyển giá bất hợp pháp gây ra thua lỗ kéo dài và chiếm lấy phần quản lý và kiểm soát công ty. Nhiều DN lợi dụng chính sách ưu đãi của Việt Nam cho giảm trừ phần chi phí cho hoạt động quảng cáo, khuyến mãi nên đã tìm mọi cách kê khai cả phần chi phí làm thương hiệu của công ty mẹ. Ngoài ra, các doanh nghiệp FDI còn lợi dụng sơ hở trong quản lý nhà nước, sử dụng các thủ đoạn gian lận thương mại, gian lận trong hạch toán để doanh nghiệp lỗ trên sổ sách kế toán và lãi trên thực tế để trốn thuế. Hiện tượng chuyển giá của các doanh nghiệp FDI tại Việt Nam bắt nguồn từ nhiều nguyên nhân khác nhau: Thứ nhất, do có sự khác biệt về thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp giữa các quốc gia. Mặc dù cũng đã có lộ trình giảm dần nhưng thuế thu nhập doanh nghiệp của Việt Nam vẫn còn khá cao so với các nước trong khu vực và trên thế giới. Ví dụ: cuối năm 2003 thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp giảm từ 32% xuống còn 28% đến năm 2008, sang 2009 là 25% trong khi nhiều quốc gia khác thuế suất chỉ trên dưới 10%, thậm chí nhiều quốc gia như Andorra, British Virgin Islands... thuế suất là 0%. Thứ hai, ngành công nghiệp hỗ trợ của Việt Nam hiện nay phát triển còn quá yếu, chưa thể đáp ứng được nhu cầu về linh kiện, vật tư, các sản phẩm trung gian cấu thành của quá trình sản xuất kinh doanh cho các doanh nghiệp FDI, chính điều này đã khiến các doanh nghiệp FDI bắt buộc phải nhập khẩu từ bên ngoài và có cơ hội để thực hiện thủ thuật chuyển giá nhằm thu được lợi nhuận tối đa. Điển hình là các ngành như diệt may, giày da, điện tử, nước giải khát... chủ yếu nhập khẩu nguyên vật liệu ở nước ngoài. Thứ ba, do hệ thống luật pháp của Việt Nam chưa hoàn thiện, còn nhiều kẽ hở và thường có độ trễ so với tình hình phát triển kinh tế của đất nước. Nguyên tắc của cơ chế quản lý thuế của Việt Nam hiện nay là các DN hiện nay tự tính, tự khai, tự nộp thuế còn cơ quan Thuế có nhiệm vụ tuyên truyền chính sách thuế, hỗ trợ DN trong việc thực hiện nghĩa vụ thuế đồng thời thực hiện chức năng kiểm tra, thanh tra để chấn chỉnh, xử lý vi phạm. Mặc dù trao nghĩa vụ kê khai các giao dịch liên kết cho các đối tượng nộp thuế như vậy có thể xem là phù hợp với xu thế quản lý thuế hiện đại vì vừa giảm được chi phí quản lý, vừa buộc các DN phải tự quyết định, tự chịu trách nhiệm với những thông tin mà mình đưa ra nhưng do tính đặc thù của sản phẩm, có những sản phẩm không tìm thấy hoặc khó tìm thấy sản phẩm tương tự thay thế. Đặc tính này thường thấy ở các tài sản vô hình như: lợi thế thương mại, bản quyền sáng chế, phát minh, bí quyết công nghệ,… nên việc so sánh với giá thị trường là rất khó trong khi năng lực thẩm định giá của Việt Nam còn yếu và thiếu dữ liệu về các giao dịch nội bộ của các công ty nước ngoài nên các doanh nghiệp FDI có thể lách luật thực hiện hành vi chuyển giá mà không bị phát hiện. Như vậy, hiện tượng chuyển giá của các doanh nghiệp FDI ở Việt Nam trong thời gian qua bên cạnh việc bắt nguồn từ mục đích tối đa hóa lợi nhuận của các DN còn do chính sự yếu kém trong quản lý cũng như còn thiếu và yếu trong việc phát triển các ngành công nghiệp hỗ trợ ở Việt Nam. Hiện nay, trên thế giới, ngành thuế các nước và các tổ chức quốc tế đều coi trọng vấn đề chuyển giá. Việc quản lý giá chuyển nhượng để chống chuyển thu nhập qua giá đang là “chủ đề thời sự” trong các diễn đàn quản lý thuế trên thế giới và trong khu vực. Trong những năm qua, số lượng các công ty đa quốc gia đã tăng lên nhanh chóng từ 3.000 công ty, đã lên đến hơn 63.000 công ty với hơn 821.000 chi nhánh và công ty con trên khắp thế giới. Các công ty này đang sử dụng khoảng 90 triệu lao động và tạo ra đến 25% tổng sản phẩm thế giới. Đồng thời, sự lớn mạnh của các công ty đa quốc gia kéo theo sự gia tăng khối lượng giao dịch thương mại quốc tế. Hiện tại trên 60% giao dịch về thương mại quốc tế xuất phát từ giao dịch của các tập đoàn kinh tế, các công ty đa quốc gia. Thông qua các giao dịch nội bộ, các công ty đa quốc gia thực hiện chính sách chuyển giá nhằm tối thiểu hóa số thuế phải nộp. Việc chuyển giá là thực hiện chính sách giá đối với sản phẩm hàng hóa, dịch vụ được chuyển dịch giữa các bên có quan hệ liên kết không theo giá giao dịch trên thị trường, nhằm tối thiểu hóa số thuế phải nộp của doanh nghiệp trên toàn cầu. Chuyển giá là việc thực hiện áp đặt giá cả một cách chủ quan trong giao dịch liên kết không chịu tác động của quy luật cung cầu thị trường nên dẫn đến sự phản ánh sai lệch về kết quả kinh doanh của các bên tham gia, gây ra sự bất bình đẳng trong việc thực hiện nghĩa vụ thuế do xác định không chính xác cơ sở tính thuế. Sở dĩ giá cả có thể xác định lại trong những giao dịch liên kết như thế xuất phát từ ba lý do sau: Thứ nhất, xuất phát từ quyền tự do định đoạt trong kinh doanh, các chủ thể hoàn toàn có quyền quyết định giá cả của một giao dịch. Do đó họ hòan toàn có quyền mua hay bán hàng hóa, dịch vụ với giá họ mong muốn. Thứ hai, xuất phát từ mối quan hệ gắn bó chung về lợi ích giữa nhóm liên kết nên sự khác biệt về giá giao dịch được thực hiện giữa các chủ thể kinh doanh có cùng lợi ích không làm thay đổi lợi ích toàn cục. Thứ ba, việc quyết định chính sách giá giao dịch giữa các thành viên trong nhóm liên kết không thay đổi tổng lợi ích chung, nhưng có thể làm thay đổi tổng nghĩa vụ thuế của họ. Thông qua việc định giá, nghĩa vụ thuế được chuyển từ nơi bị điều tiết cao sang nơi bị điều tiết thấp hơn và ngược lại. Tồn tại sự khác nhau về chính sách thuế của các quốc gia là điều không tránh khỏi do chính sách kinh tế - xã hội của họ không thể đồng nhất, cũng như sự hiện hữu của các quy định ưu đãi thuế là điều tất yếu. Chênh lệch mức độ điều tiết thuế vì thế hoàn toàn có thể xẩy ra. Cho nên, chuyển giá chỉ có ý nghĩa đối với các giao dịch được thực hiện giữa các chủ thể có mối quan hệ liên kết. Giá giao kết là cơ sở để xem xét hành vi chuyển giá. Chúng ta cũng chỉ có thể đánh giá một giao dịch có chuyển giá hay không khi so sánh giá giao kết với giá thị trường. nếu giá giao kết không tương ứng với giá thị trường thì có nhiều khả năng để kết luận rằng giao dịch này có biểu hiện chuyển giá. Việc trốn thuế qua chuyển giá có thể được thực hiện ngay từ giai đoạn đầu tư thông qua việc tính giá trị cao cho công nghệ, thương hiệu (tài sản vô hình) Với việc tính phần góp vốn cao lên để có tỷ lệ góp vốn cao, sẽ làm cho tỷ lệ lợi nhuận được chia sẻ cao hơn nhiều so với số vốn thực góp. Đến giai đoạn hoạt động, việc nâng giá vật tư, phụ tùng đầu vào cũng sẽ kéo theo việc giảm phần thuế phải nộp. Hoặc bằng cách tăng chi phí khấu hao (nghĩa là làm cho lợi nhuận giảm), tức là thu nhập chịu thuế sẽ giảm, đồng nghĩa với việc sẽ được giảm thuế thu nhập doanh nghiệp. Ví dụ:Với việc nâng giá trị máy móc thiết bị. Khi doanh nghiệp nâng giá trị máy móc thiết bị góp vốn vào liên doanh lên 1.000 USD với thời hạn khấu hao 10 năm thì mỗi năm sẽ đưa vào chi phí 100 USD và như thế cũng có nghĩa là thu nhập chịu thuế giảm 100 USD. Với mức thuế suất thu nhập doanh nghiệp được quy định là 25%, thì nhà nước sẽ thất thu 25 USD. Với việc nâng giá vật tư, phụ tùng đầu vào sẽ làm cho ngân sách bị thất thu nhiều loại thuế. Khi doanh nghiệp nâng giá vật tư, thiết bị đầu vào lên 100.000 USD, thì công ty mẹ sẽ không phải nộp một đồng thuế giá trị gia tăng nào (vì là hàng xuất khẩu), đồng thời lại được khấu trừ thuế đầu vào. Còn công ty con phải nộp thuế với hàng nhập khẩu, nhưng bù lại được khấu trừ khi bán sản phẩm. Như vậy, đương nhiên cả “công ty mẹ” và “công ty con” đều không phải mất một đồng thuế nào, trong khi được hưởng trọn khoản tiền do nâng giá vật tư, thiết bị mà có. Đối với thuế nhập khẩu: + Trường hợp hàng nằm trong diện được miễn giảm thuế. Số tiền được miễn giảm thuế chính bằng số tiền thất thu của ngân sách nhà nước. Nhưng ngay cả khi không nằm trong diện được miễn giảm thuế, số tiền nộp thuế cũng đã được đưa vào chi phí và làm giảm thu nhập chịu thuế bằng một số lượng tiền tương đương. Giả sử với trị giá hàng hóa được nâng lên 100.000 USD, và thuế suất thuế nhập khẩu là 30%. Thuế nhập khẩu phải nộp là 30.000 USD (nghĩa là thu nhập chịu thuế giảm 30.000 USD). Khi đó thuế thu nhập doanh nghiệp bị mất đi là: 30.000 USD x 25% = 7.500 USD. + Trường hợp thuế suất thuế thu nhập ở trong nước bằng với thuế của nước ngoài. Khi công ty mẹ ở nước ngoài tăng thu nhập chịu thuế lên 100.000 USD sẽ phải nộp thuế là 25.000 USD, phần còn lại được coi như thu nhập là 75.000 USD. Công ty con giảm thu nhập chịu thuế 100.000 USD sẽ giảm thuế thu nhập 25.000 USD. Đây chính là khoản nhà nước ta bị thất thu. + Trường hợp thuế suất thu nhập ở nước ngoài thấp hơn ở Việt Nam Ví dụ khi thuế thu nhập doanh nghiệp ở Đài Loan là 20%, còn thuế thu nhập doanh nghiệp ở Việt Nam là 28% (trước đây) và 25% hiện nay. Chi nhánh ở Đài Loan sẽ có thể tăng giá chuyển giao hàng hóa và dịch vụ cho chi nhánh ở Việt Nam. Nếu khoản nâng giá là 100.000 USD thì lợi nhuận báo cáo ở Đài Loan sẽ tăng lên 100.000 USD, khi đó thuế doanh nghiệp phải nộp ở Đài Loan tăng thêm 20.000 USD. Trong khi đó lợi nhuận ở Việt Nam bị giảm đi 100.000 USD, tức là số thuế phải đóng ở Việt Nam sẽ giảm đi 28.000 USD. Như vậy thông qua chuyển giá quốc tế công ty này đã “tiết kiệm” được số tiền là 8.000 USD. Theo ước tính, có khoảng 60% hoạt động thương mại toàn cầu là giao dịch có khả năng chuyển giá. Rõ ràng trốn thuế qua “chuyển giá” là cách rất tốt để các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài có thể thu được lợi nhuận tối đa. Và đây cũng chính là một hình thức gian lận thương mại. 3. Các biểu hiện chuyển giá của các doanh nghiệp FDI tại Việt Nam Hiện tượng chuyển giá ở Việt Nam hiện nay đang là những vấn đề phức tạp và khó tiếp cận. Thực trạng chuyển giá đó một mặt cho chúng ta thấy những tác động tiêu cực đến nền kinh tế nhưng qua đó cũng cho chúng ta thấy rõ hơn sự yếu kém từ trong nội bộ nền kinh tế, đây được coi là một lỗ hổng tài chính lớn của Việt Nam hiện nay. Bản chất của vấn đề chuyển giá ở đây chính là mối quan hệ về lợi ích giữa các bên. Nếu Việt Nam có những chính sách, chiến lược kém thì các doanh nghiệp FDI sẽ không bao giờ bỏ lỡ thời cơ tối đa hóa lợi nhuận bằng cách chuyển giá. Một trong những cơ sở để đưa ra nghi vấn chuyển giá trong khu vực có FDI ở Việt Nam thường là: (1) Số doanh nghiệp FDI thường xuyên báo cáo lỗ trong nhiều năm chiếm tỷ lệ lớn, trong tổng số doanh nghiệp FDI, có doanh nghiệp lỗ mất vốn chủ sở hữu; và mặc dù lỗ thường xuyên như vậy nhưng vẫn tiếp tục mở rộng quy mô sản xuất, kinh doanh. (2) Tỷ suất lợi nhuận (đối với những doanh nghiệp có lãi) trên doanh thu không đáng kể. (3) Tỷ lệ đóng góp vào ngân sách quốc gia của khu vực FDI (không kể dầu thô) thấp (chỉ dao động 9-10% tổng thu ngân sách của quốc gia), trong khi tổng dự án và tổng kinh phí đầu tư khá cao (23,3 % tổng vốn đầu tư xã hội năm 2012). Trong đó, dấu hiệu đầu tiên (1) là rõ nhất. Theo thống kê, cả nước có khoảng 50% doanh nghiệp FDI kê khai lỗ, trong đó nhiều doanh nghiệp thua lỗ liên tục trong 3 năm liên tiếp. Thành phố Hồ Chí Minh, có tới gần 60% trong số 3500 doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài nhiều năm qua thường xuyên kê khai lỗ. Tỉnh Lâm Đồng cũng xuất hiện tình trạng tương tự với 104/111 doanh nghiệp FDI báo cáo lỗ liên tục. Tỉnh Bình Dương, một trong những tỉnh thu hút được nhiều dự án FDI cũng có đến 50% doanh nghiệp FDI báo cáo lỗ từ năm 2006 – 2011 (Năm 2007, số doanh nghiệp khai báo lỗ chiếm tỷ lệ 53%, năm 2008 là 58%, năm 2009 là 55%, năm 2010 là 44% và năm 2011 là 48%). Mới đây, Thanh tra Chính phủ công bố Kết luận thanh tra việc thu nộp ngân sách tại khu chế xuất và doanh nghiệp chế xuất trên địa bàn thành phố Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh, tỉnh Bình Dương và Đồng Nai đã phát hiện có 57% trong tổng số 399 doanh nghiệp chế xuất kiểm tra không phát sinh doanh thu hoặc hạch toán lỗ hoặc không lãi; nhiều doanh nghiệp báo lỗ liên tục nhiều năm. Trong đó, qua xem xét 125 doanh nghiệp hạch toán lỗ trong 3 năm từ 2009 đến 2011 thì có đến 36 doanh nghiệp lỗ 3 năm liên tiếp với tổng mức lỗ lên tới trên 2.856 tỷ đồng; 69 doanh nghiệp lỗ 2 năm liên tiếp với tổng mức lỗ 1.829 tỷ đồng, nhiều doanh nghiệp có số lỗ vượt quá số vốn chủ sở hữu. Đáng chú ý, kết luận thanh tra nêu trên cho thấy nhiều doanh nghiệp mặc dù kê khai lỗ lớn trong nhiều năm nhưng hằng năm, tốc độ tăng doanh thu vẫn cao, hoạt động sản xuất kinh doanh liên tục được mở rộng. Trên cơ sở phân tích các số liệu, Thanh tra Chính phủ cho rằng đó "là biểu hiện của việc chuyển giá, nhưng do không xác minh được thông tin đầu ra đối với các doanh nghiệp nước ngoài nên cơ quan thuế không đủ cơ sở để xem xét, xử lý". Các báo cáo của cơ quan thuế cho thấy, các doanh nghiệp FDI báo cáo kinh doanh thua lỗ thường tập trung trong lĩnh vực gia công may mặc, da giày; sản xuất, kinh doanh chè xuất khẩu; công nghiệp chế biến… Đặc biệt, ở thành phố Hồ Chí Minh, có đến 90% doanh nghiệp FDI hoạt động trong lĩnh vực may mặc có kết quả kinh doanh thua lỗ trong khi hầu hết các doanh nghiệp trong nước cùng ngành nghề đều có lãi. Mặc dù thua lỗ triền miên song các doanh nghiệp FDI này vẫn đầu tư mở rộng sản xuất, kinh doanh. Trường hợp điển hình có những biểu hiện “đáng ngờ” về chuyển giá, trước tiên, phải nói đến công ty Coca-Cola Việt Nam. Trong gần 20 năm đầu tư, kinh doanh tại Việt Nam, Coca-Cola liên tục báo lỗ, lỗ luỹ kế tính đến 30/9/2011 của công ty này đã lên tới 3.768 tỷ đồng, vượt cả số vốn đầu tư ban đầu là 2.950 tỷ đồng. Do lỗ liên tục như vậy nên Coca-Cola Việt Nam không phải đóng thuế thu nhập doanh nghiệp, trong khi doanh thu liên tục tăng từ 20-30%/năm. Và điều đáng ngạc nhiên hơn là tuy lỗ lớn như vậy nhưng doanh nghiệp này đã có kế hoạch đầu tư thêm 300 triệu USD tại Việt Nam. Một công ty khác nằm trong diện nghi vấn chuyển giá với giá trị lớn lên đến hơn 1.200 tỷ đồng, là Công ty PepsiCo Việt Nam. Từ khi thành lập năm 1991, gần 20 năm qua PepsiCo lỗ liên tục, cho đến một số năm gần đây mới có lãi nhưng tỷ lệ lợi nhuận trên doanh thu rất thấp, chỉ trên 2%. Mặc dù vậy, PepsiCo Việt Nam vẫn liên tục mở rộng đầu tư, xây dựng các nhà máy mới ở Đồng Nai (45 triệu USD), Bắc Ninh (73 triệu USD). Công ty TNHH Metro Cash & Carry VN (thường gọi là siêu thị Metro) cũng trong diện “nghi vấn”; thành lập năm từ năm 2001, đến nay đơn vị này đã phát triển 19 trung tâm bán sỉ trên cả nước nhưng thua lỗ triền miên dù doanh thu tăng liên tục hàng năm. Cụ thể, năm 2007 lỗ 157 tỷ đồng/doanh thu 6.607 tỷ đồng; năm 2008, lỗ hơn 190 tỷ đồng/doanh thu 8.175 tỷ đồng; năm 2009, lỗ 160 tỷ đồng/doanh thu 8.728 tỷ đồng. Một loạt doanh nghiệp FDI chuyên sản xuất, kinh doanh chè ở Lâm Đồng cũng thực hiện chuyển giá và đã được cơ quan thuế của tỉnh này xử lý. Theo số liệu của Cục thuế tỉnh Lâm Đồng, 17 doanh nghiệp FDI sản xuất, kinh doanh chế biến chè trên địa bàn tỉnh năm 2009 xuất khẩu được 1.522 tấn, doanh thu 105 tỷ đồng, lỗ 63,68 tỷ đồng, lũy kế lỗ đến thời điểm 31/12/2009 là 317 tỷ đồng. Nguyên nhân dẫn đến lỗ của các doanh nghiệp này rất phi lý. Cụ thể, để sản xuất 1kg chè ô long thành phẩm, giá nguyên liệu chính là 175.000 đồng/kg trong khi đó các doanh nghiệp này xuất khẩu với giá chỉ từ từ 2,8 – 4 USD/kg (không quá 84.000 VND). Mới đây, báo cáo của Thanh tra Chính phủ cũng cho thấy điều bất thường khi nhiều doanh nghiệp FDI có “tiếng tăm” khai lỗ lớn song họ vẫn không hề có “nao núng” mà tiếp tục mở rộng sản xuất, kinh doanh. Có thể nêu một số trường hợp điển hình sau: Công ty TNHH Sumitomo Bakelite Việt Nam, 100% vốn Nhật Bản có trụ sở tại Khu công nghiệp Thăng Long, Hà Nội có số lỗ lũy kế 3 năm lên tới hơn 777 tỷ đồng. Công ty TNHH điện tử Meiko Việt Nam - một trong 10 dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài lớn nhất năm 2006 và là dự án sản xuất điện tử có vốn FDI lớn nhất vào Việt Nam tại thời điểm cấp phép - có số lỗ 3 năm là hơn 300 tỷ đồng. Công ty TNHH Sản phẩm công nghiệp Toshiba Asia với mức lỗ lũy kế 3 năm là hơn 430 tỷ đồng. Công ty TNHH Kureha Việt Nam với mức lỗ lũy kế 3 năm là 264 tỷ đồng. Công ty TNHH Olympus Việt Nam với mức lỗ lũy kế 2 năm là 256 tỷ đồng. Công ty TNHH Saigon Stec (Bình Dương) với mức lỗ lũy kế 3 năm trên 218 tỷ đồng [8]. Ngoài các công ty trên, còn một loạt các “tên tuổi” khác cũng nằm trong nghi án chuyển giá, như Adidas, Big C, Keangnam Vina. Ngành thuế Việt Nam trong nỗ lực chống chuyển giá đã buộc các doanh nghiệp giảm lỗ và truy thu thuế một khoản tiền khá lớn. Chỉ tính riêng thành phố Hồ Chí Minh, trong năm 2012, khi thanh tra 312 doanh nghiệp kê khai lỗ liên tục, trong đó có doanh nghiệp trong diện nghi vấn chuyển giá đã giảm lỗ 2.688 tỷ đồng, giảm khấu trừ 27,83 tỷ đồng, truy thu 187,79 tỷ đồng, truy hoàn 2,64 tỷ đồng và phạt gần 85 tỷ đồng, số thuế truy nộp ngân sách là 275,43 tỷ đồng. ở quy mô toàn quốc, trong năm 2011, sau khi thanh tra, kiểm tra 921 doanh nghiệp FDI lỗ, ngành thuế đã xử lý giảm lỗ 6.617 tỷ đồng, truy thu thuế và phạt 1.669 tỷ đồng. Với những cơ sở trên, có thể khẳng định, vấn đề chuyển giá trong các doanh nghiệp FDI ở Việt Nam đang ngày càng phổ biến và cuộc đấu tranh chống chuyển giá ngày càng khó khăn, phức tạp đòi hỏi các cơ quan chức năng, nhất là ngành thuế đề ra các biện pháp hữu hiệu hơn trong kiểm soát chuyển giá. 4. Giải pháp tăng cường kiểm soát chuyển giá đối với các doanh nghiệp FDI Thứ nhất, cần bổ sung Luật Quản lý thuế việc cho phép áp dụng phương pháp xác định giá trước, nghĩa là doanh nghiệp nộp thuế và cơ quan thuế thỏa thuận phương pháp xác định giá với giao dịch liên kết trong một khoảng thời gian nhất định. Cơ chế thoả thuận này đang được khoảng hơn 40 quốc gia trên thế giới áp dụng và được đánh giá là có hiệu quả (gọi là phương thức APA - Advance Pricing Agreement). Hiện nay, Việt Nam đang thực hiện thí điểm đối với Samsung và một số doanh nghiệp FDI khác, vì vậy việc thỏa thuận chỉ có thể áp dụng rộng hơn sau khi Luật quản lý thuế sửa đổi được ban hành. Bên cạnh đó, cần xây dựng văn bản quy định về việc quản lý, định giá đối với trường hợp các dự án đầu tư góp vốn bằng tài sản, máy móc thiết bị và một số khoản chi phí đặc biệt khác như chi thuê quản lý nước ngoài, chi sử dụng vốn vay của tổ chức nước ngoài. Thứ hai, Chính phủ và các cơ quan chức năng cũng cần rà soát, điều chỉnh theo hướng thu hẹp khoảng cách về các ưu đãi thuế giữa các ngành, lĩnh vực và vùng miền, địa phương. Như đã nêu ở trên, một trong những nguyên nhân dẫn đến hành vi chuyển giá là có sự chênh lệch thuế thu nhập doanh nghiệp giữa các quốc gia, chênh lệch thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp trong một quốc gia do áp dụng thuế suất ưu đãi và các ưu đãi khác như miễn, giảm thuế. Việt Nam đã bước qua giai đoạn thu hút FDI bằng mọi giá, do vậy nên cân nhắc, chỉ cho phép ưu đãi thuế đối với một số ngành nghề, lĩnh vực, vùng miền và trong những trường hợp có lợi nhất so với các hình thức ưu đãi khác. Thứ ba, cơ quan thuế các cấp cần tăng cường thanh tra giá chuyển giao, xem đây là một trong những nhiệm vụ trọng tâm của ngành thuế. Chú trọng việc thanh tra, kiểm tra giá chuyển giao đối với các doanh nghiệp có nhiều thành viên; các ngành nghề có dấu hiệu rủi ro lớn về thuế do hành vi chuyển giá của doanh nghiệp liên kết, các doanh nghiệp đã và đang thực hiện tái cơ cấu có khả năng lợi dụng chuyển giá để tránh thuế. Đối với các trường hợp chuyển giá, phải có chế tài xử phạt theo hướng tăng mức phạt và hình thức phạt so với quy định hiện tại để đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật. Thứ tư, xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu và liên thông dữ liệu, thông tin về doanh nghiệp FDI trong các cơ quan chức năng của Việt Nam để có sự phối hợp đồng bộ, thông suốt trong kiểm soát chuyển giá của các cơ quan chức năng. Theo ông Thomas McClelland, chuyên gia thuế Công ty kiểm toán Deloitte Việt Nam thì “Khó khăn của cơ quan thuế tại Việt Nam trong việc thực hiện kiểm soát về chuyển giá bắt nguồn từ sự kém hiểu biết về hoạt động chuyển giá và sự thiếu dữ liệu trong những giao dịch chuyển giá của các doanh nghiệp FDI", do vậy thời gian tới, ngành thuế, cơ quan cấp phép đầu tư, hải quan, công an, ngân hàng... cần tăng cường xây dựng cơ sở dữ liệu và kết nối thông tin để có được một hệ thống thông tin đảm bảo cho quá trình quản lý thuế nói chung và hoạt động phân tích rủi ro, thanh tra, xử lý vi phạm về giá chuyển giao giữa các thành viên liên kết nói riêng. Thứ năm, yếu tố con người giữ một vị trí quan trọng, do vậy, ngành thuế cần tăng cường đào tạo, phát triển nguồn nhân lực cho ngành thuế để chuyên theo dõi, kiểm soát chuyển giá, trong đó chú trọng đào tạo về kỹ năng xác định giá thị trường, trang bị kiến thức về kinh tế ngành, kỹ năng tin học, ngoại ngữ.../. TàI LIệU THAM KHảO 1. Lê Xuân Trường (2011), “Chống chuyển giá ở Việt Nam: Tiếp tục hoàn thiện khung pháp lý và các điều kiện thực hiện”, Tạp chí Tài chính, số 5, Tr.18-22). 2. Hương Ly, “Doanh nghiệp vốn đầu tư nước ngoài, lỗ giả, lãi thật”, Báo Hà Nội mới ngày 3/2/2012. 3. Ngọc ánh, “Phát hiện nhiều vụ chuyển giá tại các DN có vốn đầu tư nước ngoài (FDI) ở Bình Dương”, CAND online ngày 12/3/2013 (http://www.cand.com.vn/vi-VN/kinh te/2013/3/193886.cand). 4. Thanh tra Chính phủ (2013), "Kết luận Thanh tra về thu nộp ngân sách tại khu chế xuất và doanh nghiệp chế xuất trên địa bàn thành phố Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh, tỉnh Bình Dương và Đồng Nai" (Số 2053/KL-TTCP, ngày 10-9-2013) 5, Hoàng Châu, “Năm 2013: Sẽ mạnh tay chống chuyển giá”,Tinmoi.vn; http://www.tinmoi.vn/nam-2013-se-manh-tay-chong-chuyen-gia-011143620.html 6. Đoàn Văn Trường;”Nhận dạng hành vi chuyển giá, trốn thuế của các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài” Share Post Một số bài viết khác |