Chiến lược chính phủ điện tử tại các nước phát triển và đang phát triển: Khung thực hiện và trường hợp thực tiễn (Phần 2) - Biên dịch: Nguyễn Thị Ngọc Hà - Hiệu đính: Vũ Xuân Bình

21/04/2016 10:32

CHIẾN LƯỢC CHÍNH PHỦ ĐIỆN TỬ TẠI CÁC NƯỚC PHÁT TRIỂN VÀ ĐANG PHÁT TRIỂN:

KHUNG THỰC HIỆN VÀ TRƯỜNG HỢP THỰC TIỄN

Biên dịch: Nguyễn Thị Ngọc Hà 

Hiệu đính: Vũ Xuân Bình

Y. N. Chen, Đại học Tây Kentucky, Mỹ

H. M. Chen, Đại học Giao thông Thượng Hải, Trung Quốc

W. Huang, Đại học Kinh doanh, Đại học Ohio, Mỹ

R. K. H. Ching, Đại học bang California, Mỹ

(Tạp chí quản lý thông tin toàn cầu, trang 23-46, số 14(1), tháng 1-3/2006

Journal of Global Information Management, 14(1), 23-46, January-March 2006)

(Tiếp theo)

Bảng 1: Các khác biệt chính của các nước phát triển và đang phát triển

 

Các nước phát triển

Các nước đang phát triển

Lịch sử và văn hóa

- Chính phủ và nền kinh tế phát triển sớm, ngay sau khi độc lập

- Tốc độ tăng trưởng kinh tế ổn định, năng suất tăng, điều kiện sống cao

- Lịch sử dân chủ lâu đời, chính sách và pháp luật minh bạch

- Cơ cấu bộ máy nhà nước chưa kiện toàn, năng suất kinh tế chưa tăng

- Tốc độ tăng trưởng kinh tế chưa tăng, điều kiện sống thấp

- Lịch sử dân chủ ngắn, chính sách và pháp luật ít minh bạch

Nhân lực về công nghệ

- Lực lượng nhân lực công nghệ cơ hữu, cần tăng cường năng lực kỹ thuật và tuyển nguồn nhân lực trẻ tuổi

- Có khả năng và nguồn lực tài chính tốt, nguồn nhân lực hiện tại đủ để đáp ứng nhu cầu phát triển

 

- Không có nhân lực công nghệ hoặc có ít

- Không có nguồn nhân lực địa phương hoặc không có đủ năng lực tài chính, nhân lực hiện tại không đủ đáp ứng yêu cầu công việc cụ thể

Cơ sở hạ tầng

- Cơ sở hạ tầng hiện tại tốt- Nhân viên và người dân có khả năng tiếp cận mạng internet tốt

 

- Cơ sở hạ tầng hiện tại kém

- Nhân viên và người dân có ít khả năng tiếp cận mạng internet

Người dân

- Có khả năng tiếp cận internet tốt, trình độ tin học tốt, vẫn có những vấn đề tồn tại (về quyền riêng tư và bất bình đẳng số)

- Có nhiều trải nghiệm với hệ thống dân chủ, tham gia chủ động vào quá trình ra quyết định của chính phủ

- Khả năng tiếp cận mạng internet thấp, chưa tin tưởng vào dịch vụ trực tuyến, chỉ một số biết sử dụng máy tính

- Có ít trải nghiệm với hệ thống dân chủ, không chủ động tham gia vào quá trình ra quyết định của chính phủ

Cán bộ nhà nước

- Trình độ tin học tốt, nhiều người không coi chính phủ điện tử là vấn đề ưu tiên

- Trình độ tin học kém, nhiều người không quan tâm đến chính phủ điện tử do thiếu hiểu biết về vai trò của chính phủ điện tử

           Lịch sử và văn hóa

          Các quốc gia phát triển và đang phát triển có nhiều nét khác biệt về văn hóa và lịch sử. Các quốc gia phát triển được biết đến với sự phát triển sớm về kinh tế và quản trị, nhiều chính phủ được hình thành từ những năm 1500. Một số quốc gia đang phát triển mới giành được độc lập và chính phủ vẫn chưa có một cấu trúc cụ thể. Văn hóa cũng là nét khác biệt chính giữa các nước phát triển và đang phát triển. Tôn giáo và nền tảng văn hóa của người dân các nước đang phát triển hạn chế nhiều hoạt động nhất định của người dân các nước này vốn được xem là rất bình thường ở các nước phát triển. Chiến tranh tại một số nước đang phát triển tại Trung Đông và châu Á (như Afghanistan) cũng làm suy kiệt nền kinh tế và ảnh hưởng xấu tới cấu trúc chính quyền các nước này.

          Nhân lực về công nghệ

          Hệ thống cán bộ nhà nước ở hầu hết các nước phát triển có cơ cấu tổ chức tốt. Mặc dù có nhiều công chức lớn tuổi, thậm chí một nửa số công chức nhà nước tại Mỹ trong ngành công nghệ thông tin sẽ nghỉ hưu trong vòng 3 năm tới (Ledford, 2002), khối công nghệ thông tin vẫn được tiếp tục đầu tư phát triển. Ngược lại, cơ quan nhà nước ở nhiều nước đang phát triển không có bộ phận công nghệ thông tin hoặc có nhưng không được trang bị tốt và kỹ năng còn yếu. Vấn đề chính tại các quốc gia này là giáo dục và thiếu nguồn tài chính để trả lương cho cán bộ có kỹ năng. Điều này càng gây ra những khó khăn trong việc phát triển và duy trì hệ thống chính quyền.

          Chính phủ ở nhiều nước phát triển lựa chọn thuê các công ty bên ngoài phát triển các dự án chính phủ điện tử. Tại các nước phát triển, chính phủ cho phép các công ty chuyên trách về phát triển chính phủ điện tử có cơ sở nằm trong hệ thống các cơ quan nhà nước; do đó, các giải pháp được đưa ra một cách thuận tiện và hợp lý. Các công ty chuyên trách về chính phủ điện tử cũng sẵn có tại các nước đang phát triển, tuy nhiên mức chi phí cao có thể không khả thi đối với các nước này. Thậm chí khi việc thuê các công ty bên ngoài là khả thi, thì với những hạn chế về kiến thức công nghệ thông tin, chính phủ các nước đang phát triển cũng gặp khó khăn trong xác định các yêu cầu và nguồn lực cho phát triển các dự án về chính phủ điện tử. 

          Cơ sở hạ tầng     

         Quy mô và năng lực của cơ sở hạ tầng tại các nước phát triển và đang phát triển có sự khác biệt lớn. Ví dụ như năng lực của Ấn Độ trong truyền tải viễn thông quốc tế đạt khoảng 780 Mbps vào cuối năm 2000, chỉ bằng 1,4% dung lượng của nước hàng xóm Trung Quốc (Dooley, 2002). Các nước phát triển có cơ sở hạ tầng với quy mô và năng lực phủ sóng mạng lưới internet và điện thoại tới hầu hết người dân, với dân số khoảng hơn 300 triệu người. Ngược lại, các nước đang phát triển có cơ sở hạ tầng yếu do điều kiện kinh tế, chiến tranh tàn phá hay do những quy định của chính phủ về ngành công nghiệp điện tử viễn thông. Tại Ấn Độ, các quy định của chính phủ cũng gây ra tình trạng tiến thoái lưỡng nan do điện tử viễn thông là ngành độc quyền của nhà nước từ khi nước này thoát khỏi ách thống trị của Anh từ 1947 (Dooley, 2002). Những yếu tố trên đã làm hạn chế quá trình phát triển của chính phủ điện tử tại các nước đang phát triển.

          Người dân 

         Sự khác biệt trong cách tiếp cận mạng internet của người dân tại các nước phát triển và đang phát triển phản ánh năng lực về cơ sở hạ tầng và viễn thông tại các nước đó. Như đã đề cập ở trên, các nước đang phát triển thiếu nguồn lực tài chính cũng như gặp phải những vấn đề trong cấu trúc và tính ổn định của chính phủ để duy trì cơ sở hạ tầng quy mô lớn. Hậu quả là người dân khó tiếp cận với mạng lưới internet và các dịch vụ điện thoại. Một phần ba dân số thế giới chưa từng dùng điện thoại, và khoảng 63 quốc gia có số lượng người dùng mạng internet chưa tới 1% (ICeGD, 2002). Tại các nước phát triển, mỗi người dân đều có khả năng tiếp cận mạng internet, và tỷ lệ người dùng máy tính thông thạo cũng vượt xa so với tại các nước đang phát triển.

         

Cán bộ nhà nước

          Một trong những vấn đề cấp bách là cán bộ nhà nước phải hiểu và đánh giá đúng vai trò của chính phủ điện tử. Mức độ phân bổ nguồn lực cho chính phủ điện tử phụ thuộc hoàn toàn vào sự hiểu biết của cán bộ nhà nước về công nghệ và lợi ích mà nó mang lại. Tại các nước phát triển, hầu hết cán bộ nhà nước sử dụng mạng internet hoặc máy tính trong các công việc hàng ngày. Vì vậy, cán bộ nhà nước tại các nước phát triển rất thông thạo với công nghệ và hiểu được tính thiết yếu của nó. Điều này giúp nâng cao khả năng áp dụng và phân bổ các nguồn lực trong quá trình triển khai. Tại các nước đang phát triển, công nghệ thông tin là một khái niệm còn khá trừu tượng, và cán bộ nhà nước phần nào đó chưa sẵn sàng tiếp cận và làm việc trong lĩnh vực mà họ chưa thông thạo.

          KHUNG THỰC HIỆN CHÍNH PHỦ ĐIỆN TỬ       

         Hầu hết, nếu không muốn nói là tất cả các kế hoạch chiến lược và triển khai chính phủ điện tử tại các nước đang phát triển đều dựa vào lý thuyết và kinh nghiệm của các nước phát triển (Huang, D’ Ambra, & Bhalla, 2002). Nhận thấy áp lực và nhu cầu của người dân trong việc tiếp cận các dịch vụ trực tuyến từ chính phủ điện tử, rất nhiều chính phủ các nước đang phát triển vội vàng gia nhập làn sóng chính phủ điện tử bằng cách theo đuổi các chiến lược phát triển chính phủ điện tử được đề xuất và thực hiện bởi các nước phát triển. Tuy nhiên, do các nước phát triển và đang phát triển có nhiều khác biệt trong điều kiện về công nghệ và xã hội, nên các chiến lược và kinh nghiệm thực hiện chính phủ điện tử của các nước phát triển khó có thể áp dụng trực tiếp cho các nước đang phát triển. Ngay tại các nước phát triển, khoảng 20 - 25% các dự án chính phủ điện tử không bao giờ được thực hiện hoặc bị đình chỉ sau khi thực hiện, khoảng hơn 33% không thực sự thành công do không đạt được các mục tiêu được đề ra (Heeks, 2000).

        Trung tâm phát triển quốc tế tại Đại học Harvard được tài trợ bởi tập đoàn IBM, đã xác định bốn khác biệt chính trong triển khai thương mại điện tử (Kỉkman, Osorio, & Sachs, 2001). Bốn nhân tố này được dùng trong nghiên cứu này, còn được gọi là các nhân tố Cơ sở hạ tầng chính phủ điện tử quốc gia (NeI).

          Nhân tố thứ nhất: Khả năng tiếp cận

          Khả năng tiếp cận mạng lưới được đánh giá bằng tính sẵn có, chi phí, chất lượng của mạng lưới, dịch vụ và trang thiết bị công nghệ thông tin và truyền thông. Cụ thể hơn, yếu tố này bao gồm các nội dung sau:

          Phát triển cơ sở hạ tầng

          Phát triển cơ sở hạ tầng là điều kiện tiên quyết trước khi chính phủ xem xét triển khai bất cứ dự án lớn nào có liên quan đến chính phủ điện tử. Người dân cần phải có khả năng tiếp cận với dịch vụ trước khi được hưởng bất cứ lợi ích từ tiết kiệm chi phí do chính phủ điện tử mang lại. Hơn nữa, chính phủ cũng như cán bộ nhà nước cũng khó có thể chuyển sang giai đoạn giao dịch với người dân cũng như triển khai các kế hoạch tiếp theo của chính phủ điện tử khi cơ sở hạ tầng quản trị vẫn còn thiếu hụt.

          Các nguồn lực và hỗ trợ về công nghệ thông tin

        Thuê các doanh nghiệp ngoài chính phủ có thể là một lựa chọn để triển khai chính phủ điện tử. Khu vực tư nhân bất kể tại quốc gia nào đều có nghĩa vụ hỗ trợ chính phủ triển khai hoạt động chính phủ điện tử trong phạm vi của mình. Các quốc gia đang phát triển còn thiếu hụt nhiều nguồn lực (kể cả kỹ thuật và nhân lực) cần có hỗ trợ về mặt tài chính và kỹ thuật từ khu vực tư nhân nhằm phát triển hiệu quả các ứng dụng về chính phủ điện tử.

          Khả năng sử dụng       

         Khả năng sử dụng internet của người dân dựa trên khả năng truy cập internet và các trang web. Nhằm giúp cho nhiều người dân hơn nữa có thể sử dụng mạng internet, cơ sở hạ tầng tốt là vấn đề then chốt, được thể hiện bằng việc người dân có thể truy cập internet 24/7 nhờ các biện pháp hỗ trợ kỹ thuật. Tại các nước phát triển, khả năng sử dụng internet của người dân là nhân tố quan trọng trong vấn đề tiết kiệm chi phí quốc gia.

          Nhân tố thứ hai: Ứng dụng trong giáo dục

          Vấn đề ứng dụng mạng trong giáo dục liên quan đến hai yếu tố chính: (1) Hệ thống giáo dục có tích hợp công nghệ thông tin và truyền thông (ICT) nhằm hỗ trợ quá trình học tập không? Và (2) Có chương trình đào tạo công nghệ nào được dùng trong đào tạo và dự trù nguồn nhân lực công nghệ thông tin và truyền thông không? Biên chế và đào tạo cán bộ kỹ thuật là vấn đề chính trong thực hiện chính phủ điện tử. Tại các nước đang phát triển, bất cập chủ yếu đến từ thiếu hụt nguồn tài chính trong việc tuyển dụng nhân sự trong nước làm việc chính quy hoặc do những hạn chế của nền giáo dục khiến tuyển dụng nhân sự trở nên khó khăn. Thuê nhân sự bên ngoài có thể là một giải pháp, tuy nhiên; không phải công ty nào có đủ năng lực và phù hợp. Dù có đủ nguồn tài chính để thuê các công ty triển khai dự án về chính phủ điện tử, thì khó khăn vẫn nằm ở khâu duy trì và bảo dưỡng hệ thống. 

          Nhân tố thứ ba: Tính kinh tế

          Tính kinh tế liên quan đến cách doanh nghiệp và chính phủ sử dụng công nghệ thông tin và truyền thông trong tương tác với cộng đồng và với nhau như thế nào. Những vấn đề chính bao gồm hợp tác, đối tác, hợp tác giữa khu vực công - tư, quá trình hình thành cộng đồng điện tử… Bên cạnh đó, xóa bỏ ranh giới giữa các cơ quan trong chính phủ cũng là vấn đề đáng quan tâm trong triển khai chính phủ điện tử. Tại nhiều nước đang phát triển, cơ cấu bộ máy nhà nước còn chưa hoàn thiện và còn chịu nhiều tác động từ tham nhũng và chủ nghĩa cộng sản. Kết quả là, việc xóa bỏ ranh giới và hợp tác giữa các cơ quan là quá trình lâu dài và nhiều khó khăn. Ở nhiều quốc gia, chiến tranh và khủng bố liên miên làm trì trệ hoạt động của bộ máy chính phủ. Các cơ quan trong chính phủ cần phải hợp tác với nhau, với khu vực tư nhân và các cơ quan đoàn thể khác có liên quan nhằm triển khai chính phủ điện tử một cách hiệu quả. Do trình độ tin học còn thấp và chi phí truy cập trực tuyến còn cao, những bước triển khai không cần thiết và rườm rà cần được cắt bớt nhằm cho phép người sử dụng nhanh chóng tiếp cận với các văn bản hành chính để in hoặc điền trực tuyến.

          Nhân tố thứ tư: Chính sách mạng

          Vấn đề chính sách ở đây liên quan đến mức độ mà môi trường chính sách sẽ thúc đẩy hay kìm hãm quá trình tiếp nhận và sử dụng công nghệ thông tin và truyền thông. Một số vấn đề chính liên quan đến quy phạm pháp lý, luật pháp, chiến lược (tầm nhìn và sứ mệnh), tính minh bạch…Các cơ quan chính phủ cần phải có trách nhiệm và minh bạch về thông tin và các chu trình làm việc mà họ phụ trách. Các quy trình và nhiệm vụ cần được chia tách rõ ràng và cần được giao cho cơ quan chính phủ phù hợp chịu trách nhiệm. Những cơ quan này cần phối hợp với nhau trong việc thiết kế trang web và chu trình công nghệ thông tin. Sau khi triển khai, các cơ quan này cần có khả năng và trách nhiệm duy trì trang web cũng như khắc phục những vấn đề nảy sinh. Chính phủ cũng cần quan tâm đầu tư cho hệ thống tài chính và kiểm toán. Rất nhiều nước đang phát triển gặp nhiều thách thức và vấn đề kinh tế do thiếu vắng hệ thống kiểm toán tin cậy.

          Các nhân tố văn hóa và xã hội      

          Thương mại điện tử thường liên quan tới các giao dịch kinh doanh trong khu vực tư nhân trong khi chính phủ điện tử gắn liền với các dịch vụ hành chính trong khu vực công. Do những khác biệt giữa khu vực công và tư (Bozeman & Bretschneider, 1986; Caudle, Gorr, & Newcomer, 1991; Rainey, Backoff, & Levine, 1976), ngoài những nhân tố đã được chỉ ra trong dự án nghiên cứu thương mại điện tử của Đại học Harvard ở trên, các vấn đề khác cũng cần được quan tâm trong chiến lược cũng như cách thức triển khai chính phủ điện tử. Các nghiên cứu có liên quan trước đó đã chỉ ra một số yếu tố chính trong thực hiện chiến lược chính phủ điện tử. Những yếu tố này có thể được sử dụng nhằm xác định những khác biệt trong triển khai chính phủ điện tử ở các nước phát triển và các nước đang phát triển. Đó là các yếu tố xã hội như lịch sử, công dân (Huang, D’ Ambra, & Bhalla, 2002), cán bộ công chức và quản lý nhà nước (Wimmer, Traunmuller, & Lenk, 2001), cơ cấu bộ máy chính quyền (Baligh, 1994); và các yếu tố văn hóa như văn hóa quốc gia (Hoftstede, 1980; Schein, 1993) và các quy phạm xã hội (Ajzen, 1988). Bên cạnh đó, yếu tố xã hội như chính trị và sự sẵn có về thông tin cũng cần được lưu tâm. Các nước đang phát triển thường ít dân chủ hơn cũng như thông tin báo chí còn kém phát triển nên nguồn thông tin còn thiếu hụt và bất cân đối. Những nhân tố chính trị và thông tin, thực chất, có tác động đáng kể đến tốc độ xây dựng cơ sở hạ tầng tại các nước đang phát triển. Vì vậy, những nhân tố này cần được quan tâm trong triển khai chiến lược chính phủ điện tử.

          Những thảo luận và nghiên cứu trước đây đã chỉ ra khung nghiên cứu kết hợp các yếu tố dẫn đến thành công có ảnh hưởng đến chiến lược và kế hoạch triển khai chính phủ điện tử. Các yếu tố này có thể có giá trị hơn tại các nước đang phát triển so với các nước phát triển hoặc ngược lại. Khung thực hiện này có thể được sử dụng trong đánh giá và hướng dẫn triển khai chiến lược phát triển chính phủ điện tử tại các nước phát triển và đang phát triển.

          NGHIÊN CỨU TRƯỜNG HỢP

          Trường hợp nghiên cứu dưới đây mô tả cách thức khung thực hiện trong triển khai chính phủ điện tử được sử dụng để phân tích các chiến lược chính phủ điện tử khác nhau đang áp dụng tại các nước phát triển và đang phát triển. Đây chính là cái nhìn tổng quan so sánh về quá trình thực hiện chính phủ điện tử tại Mỹ (nước phát triển lớn nhất) và Trung Quốc (nước đang phát triển lớn nhất, với mục tiêu trọng tâm là Thượng Hải - thành phố lớn nhất và là trung tâm kinh tế lớn của Trung Quốc).

          Chiến lược triển khai chính phủ điện tử tại Mỹ

          Là nước phát triển lớn nhất thế giới, Mỹ có cấu trúc chính quyền dân chủ và hệ thống kinh tế tư bản với bề dày văn hóa và lịch sử lâu đời. Chính phủ Mỹ, do vậy, áp dụng nguyên tắc ba chiến lược trong triển khai chính phủ điện tử: (1) lấy người dân làm trung tâm, không áp dụng hệ thống hành chính quan liêu; (2) định hướng kết quả đầu ra; và (3) dựa trên nguyên lý thị trường, chủ động đổi mới (nguồn: www.firstgov.gov). Nói một cách ngắn gọn, chiến lược triển khai chính phủ điện tử của Mỹ định hướng thị trường với mục tiêu phục vụ và hỗ trợ các nhu cầu cụ thể của người dân mà đầu ra là những kết quả cụ thể và rõ ràng.

          Môi trường chính sách của Mỹ đóng vai trò quan trọng trong việc nắm bắt chiến lược triển khai chính phủ điện tử. Một hệ thống luật pháp có liên quan đến phát triển chính phủ điện tử đã được thông qua, bao gồm Đạo luật Quyền riêng tư, Đạo luật bảo vệ quyền riêng tư và sử dụng máy tính, Đạo luật An ninh máy tính, và Đạo luật chính phủ điện tử (Relyca, 2002).

          Dựa trên sách trắng của chính phủ liên bang Mỹ về chiến lược chính phủ điện tử (2002 và 2003), hơn 60% người dùng internet tương tác với chính phủ thông qua trang web. Hơn nữa, bằng việc nâng mức độ chi tiêu cho công nghệ thông tin xuyên suốt các cơ quan liên bang, chính phủ liên bang Mỹ tiết kiệm được hơn 1 tỷ đô la Mỹ khỏi những đầu tư không đáng có. Chi tiêu cho công nghệ thông tin liên bang vượt quá 48 tỷ đôla Mỹ năm 2002 và 52 tỷ đôla Mỹ năm 2003. Mức chi tiêu khổng lồ đó tạo điều kiện thúc đẩy sự chuyển biến tích cực của chính phủ Mỹ thành chính phủ điện tử lấy người dân làm trung tâm. Thực tế, một phần trong chi tiêu cho công nghệ thông tin của liên bang hiện tại được dành cho sáng chế, cải tiến mạng internet. Số lượng trang web đã tăng mạnh từ 22.000 tới 35 triệu trang. Tuy nhiên, cách tiếp cận công nghệ thông tin cũ theo hướng tập trung vào các cơ quan hành chính đã làm hạn chế khả năng phục vụ người dân của chính phủ. Vì thế, chính phủ liên bang quyết định chuyển đổi cách thức làm việc với người dân thông qua sử dụng chính phủ điện tử.

          Báo cáo tháng 9/2002 của Tổ chức Pew đã chỉ ra rằng số lượng người dân sử dụng trang web của chính phủ đã đạt con số 71 triệu người so với 40 triệu người vào thời điểm tháng 3/2000. Báo cáo của Liên Hợp Quốc tháng 6/2002: Tiêu chuẩn chính phủ điện tử: Triển vọng toàn cầu, đã xếp loại Mỹ là quốc gia hàng đầu thế giới về chính phủ điện tử dựa trên những thành qủa nước này đạt được. Trang web FirstGov.gov - cổng thông tin điện tử của chính phủ Mỹ - đang ở giai đoạn triển khai thứ tư trong lộ trình phát triển (Hiller & Belanger, 2001). Ở giai đoạn này, trang web tích hợp nhiều dịch vụ hành chính khác nhau nhằm đẩy mạnh tính tối ưu, hiệu quả và tiện dụng, thu hút gần 6 triệu người truy cập một tháng. Đây cũng chính là cổng thông tin dẫn đến hơn 180 triệu trang web của chính phủ liên bang, chính phủ các bang, quận Columbia và các vùng lãnh thổ trên khắp nước Mỹ. Lọt trong danh sách “50 trang web uy tín hữu dụng nhất” do Yahoo bầu chọn tháng 7/2002 và danh sách “100 trang web tốt nhất” do tạp chí PC Magazine xếp hạng tháng 3/2003, FirstGov.gov gần đây nhất đã nhận giải thưởng danh giá Đổi mới trong chính phủ Mỹ nhờ những thành công trong xóa bỏ rào cản truyền thống của chính phủ nước Mỹ với người dân.

          Tháng 1/2003, các nhà quản lý dự án chính phủ điện tử đã có buổi gặp mặt với các thành viên chuyên trách mảng chính phủ điện tử của Mỹ. Hơn 100 nhà quản lý đã chia sẻ hàng loạt nội dung có liên quan đến các thách thức tồn đọng mà chiến lược chính phủ điện tử năm 2003 cần giải quyết. Không có thách thức nào về mặt kỹ thuật (như đã đề cập ở trên, Mỹ là một trong những quốc gia có điều kiện Cơ sở hạ tầng chính phủ điện tử quốc gia (NeI) tốt nhất trên thế giới, nên các thách thức đặt ra trong triển khai chiến lược chính phủ điện tử thường là các vấn đề phi kỹ thuật). Các thách thức tập trung vào vấn đề về chính sách và hành vi chẳng hạn như hỗ trợ từ các nhà lãnh đạo, chủ nghĩa địa phương, nguồn quỹ hay truyền thông. Các thách thức khác trong năm 2003 là áp dụng giải pháp chính phủ điện tử xuyên suốt hệ thống cơ quan chính phủ, cắt giảm chi phí, và nỗ lực mang lại lợi ích nhiều hơn nữa cho người dân. Những giải pháp được khuyến nghị bao gồm thiết lập cổng thông tin điện tử duy nhất, giúp người dân dễ dàng tiếp cận thông tin trong vòng 3 lần nhấp chuột (ví dụ như những cổng thông tin điện tử một cửa Recreation.gov và Regulations.gov); phát triển các công cụ giúp hỗ trợ tiếp cận các chương trình của chính phủ một cách đơn giản; và thiết lập tiêu chuẩn thu thập và báo cáo dữ liệu chung.

          Vào năm 2003 và 2004, chiến lược chính phủ điện tử nhìn chung đã giải quyết được các mặt sau đây:

-   Nâng cao năng suất và chất lượng dịch vụ

        Đầu tư về công nghệ thông tin và cải cách quản lý đã thúc đẩy gia tăng chuỗi giá trị cho người dân, đặc biệt trên khía cạnh chia sẻ thông tin và kiến thức về an ninh quốc gia.

- Kiểm soát chi phí công nghệ thông tin

         Kiểm soát các nguồn đầu tư chồng chéo và không cần thiết, rà soát giấy phép kinh doanh, giair quyết các chi phí dư thừa, xóa bỏ các phí dịch vụ công nghệ thông tin không đáng có.

- Thực hiện Đạo luật chính phủ điện tử năm 2002

          Bao gồm các chiến lược trực tuyến về quản trị kiến trúc mạng nhằm cải thiện khả năng tiếp cận thông tin và dịch vụ.

- Cải thiện an ninh máy tính

         Bảo vệ an ninh cho máy tính cố định, dữ liệu, ứng dụng, liên kết mạng, hay các mục tiêu dễ bị tổn thương khác khỏi các nguy cơ đe dọa, bảo vệ quyền riêng tư cá nhân.

          Tóm lại, dựa trên lịch sử lâu dài của hệ thống dân chủ, chính phủ Mỹ hiện nay chỉ tập trung vào hai mục tiêu chính là gia tăng tình hiệu quả và tối ưu của công việc cũng như giảm thiểu chi phí trong triển khai chính phủ điện tử.

          Những khác biệt giữa Mỹ và Trung Quốc       

          Dự án triển khai chính phủ điện tử đầu tiên được tiến hành ở Trung Quốc năm 1994. Dựa trên báo cáo thống kê lần thứ 11 về phát triển mạng lưới quốc gia của Trung tâm thông tin mạng lưới quốc gia Trung Quốc (CNNIC), số lượng người sử dụng mạng internet đã đạt 59.1 triệu người tính đến cuối năm 2002. Con số này giúp tổng số người dùng internet trên toàn thế giới tăng thêm 9% (655 triệu người). Trung Quốc có khoảng 371.600 trang web, trong đó 291.323 trang có tên miền com.cn, 6.148 trang tên miền gov.cn, 54.156 trang tên miền net.cn và 1.783 trang có tên miền ỏg.cn. Số lượng máy tính kết nối mạng internet lên đến hơn 20.83 triệu máy. 

          Mặc dù Trung Quốc luôn duy trì vị thế là quốc gia có tốc độ phát triển kinh tế nhanh nhất thế giới trong những năm gần đây, tuy nhiên; khoảng cách giữa nước này với các nước phát triển khác như Mỹ về chỉ số Cơ sở hạ tầng chính phủ điện tử quốc gia (NeI) vẫn còn rất lớn. Dù nền kinh tế tăng trưởng rất nhanh trong một thập kỷ qua, Trung Quốc vẫn đang trong quá trình chuyển đổi từ mô hình kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang cơ chế kinh tế thị trường. Bài nghiên cứu này sẽ đánh giá tình trạng thực hiện chính phủ điện tử ở Trung Quốc, đặc biệt là Thượng Hải - trung tâm kinh tế của nước này thông qua khung thực hiện đã đề cập ở trên. Thượng Hải là một trong những thành phố phát triển nhất của Trung Quốc. Nếu có sự khác biệt về chỉ số Cơ sở hạ tầng chính phủ điện tử quốc gia (NeI) và quá trình triển khai chính phủ điện tử giữa Thượng Hải và Mỹ, thì khác biệt đó giữa Mỹ và Trung Quốc có thể càng lớn hơn rất nhiểu.

1. Khả năng tiếp cận

          Cơ sở hạ tầng thông tin ở Thượng Hải đã có nhiều chuyển biến lớn và đã đạt được một số thành tựu nhất định trong những năm gần đây. Tính đến đầu năm 2002, băng thông kết nối internet quốc tế đã được nâng cấp lên 2.5G, đường dây cáp viễn thông trải dài hơn 550 km, bao phủ 99% thành phố. Số lượng người sử dụng mạng băng thông rộng tại thành phố này đạt 125 nghìn người, số người sử dụng điện thoại cố định vượt hơn 6 triệu thuê bao – thấp hơn nhiều so với số người sử dụng điện thoại di động. Hơn 3.1 triệu gia đình kết nối internet - gấp đôi số liệu thống kê chỉ 1 năm trước đó. Tuy vậy, giá cước đăng ký dịch vụ internet ở Trung Quốc, thậm chí là Thượng Hải, vẫn cao hơn rất nhiều so với các nước đang phát triển khác chẳng hạn như Mỹ. Tại Trung Quốc, người dùng phải trả phí hai chiều cho Nhà cung cấp dịch vụ mạng (ISP) - có nghĩa là phí phải trả được áp dụng cho cả gửi và nhận thông tin.

 

2.  Ứng dụng trong giáo dục

          Ứng dụng mạng trong giáo dục đã được gia tăng đáng kể ở Thượng Hải. Dung lượng băng thông rộng của mạng lưới Khoa học và Giáo dục Thượng Hải (SSEN) được nâng cấp lên 1.25G so với 64k ở giai đoạn ban đầu. Năm 2001, cáp quang kết nối các cơ sở giáo dục ở Thượng Hải dài hơn 200 km. Hơn 19 trường đại học ở Thượng Hải đang nỗ lực xây dựng cơ sở dữ liệu chung về thông tin các loại sách tại thư viện các cơ sở giáo dục này. Trong hệ thống này, người đọc có thể tìm thấy các tư liệu học thuật và có thể mượn sách trực tuyến thông qua Dịch vụ Thuê/Mượn sách từ xa. Tính đến năm 2001, Mạng lưới Khoa học và Giáo dục Thượng Hải đã có lượng tư liệu khổng lồ gồm 12 nghìn cơ sở dữ liệu sách báo, 200 nghìn nguồn sách điện tử, các nguồn dữ liệu về kinh doanh, khoa học công nghệ, hệ thống cơ sở điện tử định kỳ…Hơn 100 cơ sở dữ liệu đa chức năng cho phép sinh viên thoải mái lựa chọn nội dung tìm kiếm. Hơn thế, một số trường đại học ở Thượng Hải được chính phủ cho phép phát triển các dự án “trường học điện tử”, tạo điều kiện cho học tập trực tuyến trở nên quy củ và chuyên nghiệp hơn. Dựa trên Báo cáo phát triển con người năm 2001 của Chương trình Phát triển Liên Hợp Quốc, Trung Quốc xếp thứ 45 trong số 72 quốc gia về Chỉ số thành tựu kỹ thuật. Trong danh sách này, Mỹ là quốc gia xếp thứ hai.

3. Tính kinh tế

          Ngành công nghiệp thông tin ở Thượng Hải vẫn giữ được động lực phát triển nhanh trong những năm gần đây. Với tốc độ phát triển lên đến 24.4%, ngành công nghiệp thông tin duy trì vị thế là trụ cột công nghiệp thứ nhất tại Thượng Hải và mang lại doanh thu tương đương 130.225 tỷ nhân dân tệ. Tỷ lệ giá trị gia tăng của ngành so với tổng sản phẩm quốc nội GDP chiếm 8.1%, nhiều hơn mức tỷ lệ năm trước đó 0.7%. Trong đó, doanh thu của ngành công nghiệp sản xuất sản phẩm thông tin đạt 101.3 tỷ nhân dân tệ với tốc độ phát triển lên đến 37.4%. Tỷ lệ buôn bán sản phẩm tăng 1.8% đạt mức 97.5% tại Thượng Hải. Trong khi đó, dịch vụ thông tin và phần mềm thu về 28.8 tỷ nhân dân tệ, tăng 52.2% so với năm trước đó. Do ngành công nghiệp thông tin của Thượng Hải luôn nằm trong nhóm ba ngành công nghiệp quy mô nhất toàn quốc, nên triển vọng thu hút quan tâm toàn cầu của ngành là rất lớn. Vì thế, tính kinh tế sẽ được cải thiện đáng kể khi Thượng Hải áp dụng chiến lược “Đẩy mạnh công nghiệp hóa bằng thông tin hóa”. Trong số 1500 công ty, 80% có bộ phận công nghệ thông tin, 97% phổ cập sử dụng máy tính, 89% thông thạo với các phần mềm thông thường, 12% áp dụng hệ thống quản trị doanh nghiệp (ERP), và 8% triển khai hệ thống quản lý quan hệ khách hàng (CRM). Hơn 500 khu mua sắm ứng dụng hệ thống quản lý thông tin (MIS), hầu hết các chuỗi cửa hàng và siêu thị sử dụng thiết bị bán hàng (POS) được kết nối với nhau nhằm gia tăng giá trị của hệ thống mạng. Nhìn chung, doanh thu thương mại điện tử của Trung Quốc tương đối nhỏ, chỉ chiếm khoảng 0.23% doanh thu thương mại điện tử hàng năm của Mỹ.

4. Chính sách mạng

          Chính sách mạng là yếu tố bất lợi nhất của Trung Quốc trong số các chỉ số Cơ sở hạ tầng chính phủ điện tử quốc gia (NeI). Trung Quốc đang chuyển đổi hệ thống kinh tế từ mô hình kinh tế kế hoạch hóa tập trung kiểu Liên xô cũ sang nền kinh tế tư bản định hướng thị trường. Quá trình chuyển đổi dù dường như đang đúng hướng nhưng vẫn còn dài và nhiều khó khăn. Hệ thống luật pháp, các quy chế, quy định đang dần được thiết lập, dù vậy vẫn chưa thể đủ khả năng quản lý nền kinh tế của một nước phát triển lớn. Đó là chưa kể đến các chính sách về hệ thống kinh tế và các luật liên quan cũng cần phải được hoàn thiện.

          Do quá trình hiện đại hóa còn ngắn cũng như bị ảnh hưởng bởi chế độ chính quyền phong kiến lâu đời, hệ thống và chính sách dân chủ của Trung Quốc cần nhiều thời gian để xây dựng và kiện toàn dù nước này đã đạt không ít thành tựu phát triển trong một thập kỷ qua. Chẳng hạn như, tính tới năm 2002, 12 chính sách, quy chế, quy định đã được chính quyền thành phố Thượng Hải xem xét. Những nội dung chính bao gồm:

- Quy định về quản lý dự án thông tin của thành phố Thượng Hải

- Các quy định chi tiết trong Điều lệ Quảng bá công nghiệp và phần mềm thông tin truyền thông tại Thượng Hải

- Quyết định về Xây dựng Thông tin hóa tổng thể ở Thượng Hải

- Đề xuất An ninh thông tin tại Thượng Hải

- Các biện pháp quản lý về hệ thống thẻ bảo hiểm xã hội và

- Các biện pháp quản lý về hệ thống điện thoại công cộng

          Bên cạnh hệ thống các chính sách, quy chế, quy định, quá trình triển khai trên thực tế cũng rất quan trọng. Chính quyền thành phố Thượng Hải chịu trách nhiệm về quản trị, giám sát và thảo luận chung về các vấn đề nảy sinh nhằm hướng tới một môi trường pháp lý tốt hơn.

5. Các nhân tố văn hóa và xã hội

          Các nước phát triển có cấu trúc chính quyền dân chủ và hệ thống kinh tế tư bản với bề dày lịch sử và văn hóa, trong đó có nhiều chính phủ ra đời từ những năm 1500. Nhiều nước đang phát triển còn chưa kiện toàn bộ máy chính quyền cũng như xây dựng nền kinh tế thị trường hiệu quả. Trung Quốc mới áp dụng chính sách “mở cửa” vào cuối những năm 70 và định hướng nền kinh tế thị trường vào những năm 90 của thế kỷ trước. Do đó những khác biệt lớn giữa Trung Quốc và các nước phát triển các về các nhân tố lịch sử, văn hóa, người dân, cán bộ nhà nước cũng như nhân viên kỹ thuật là hoàn toàn dễ hiểu.

          Chẳng hạn như, Trung Quốc chịu ách thống trị của hệ thống chính quyền phong kiến trong gần 5000 năm, khi mà các bậc vua, chúa nắm toàn bộ quyền hành và quyết định toàn bộ suy vong của đất nước. Chỉ cho đến đầu những năm 1910, hệ thống chính quyền phong kiến mới bị lật đổ. Tuy nhiên, lịch sử thống trị độc đoán đã có những ảnh hưởng nhất định tới hệ thống và cấu trúc chính quyền hiện đại. Thậm chí hiện nay, chính phủ và chính quyền các cấp vẫn có những đặc quyền nhất định trong tiếp cận với các nguồn lực có giá trị như tài chính, nhân lực hay tư liệu sản xuất. Các tổ chức và cơ quan nhà nước thường thuận lợi hơn so với khu vực tư nhân trong triển khai chính phủ điện tử. Mức độ minh bạch trong cơ chế quản lý nhà nước và trong quá trình ra quyết định thường rất thấp. Do những lý do lịch sử và những lợi ích dễ thấy, nhiều người giỏi và sinh viên tốt nghiệp thích làm việc trong khối nhà nước. Kết quả là, cán bộ công chức và/hoặc nhân viên kỹ thuật trong khối nhà nước thường thông thạo hệ thống và công nghệ thông tin hơn so với khu vực tư nhân trong các công việc thường ngày.

          Tóm lại, do những khác biệt về các chỉ số Cơ sở hạ tầng chính phủ điện tử quốc gia (NeI) cũng như các vấn đề xã hội khác, việc khu vực tư nhân đóng vai trò dẫn dắt trong triển khai chính phủ điện tử hoàn toàn không khả thi. Thay vào đó, khu vực công có vai trò chèo lái tiến trình thực hiện chính phủ điện tử. Vì thế, chiến lược triển khai chính phủ điện tử tại Trung Quốc và Mỹ sẽ có nhiều khác biệt. Phần tiếp theo của nghiên cứu sẽ đề cập đến vấn đề này.

          Chiến lược triển khai chính phủ điện tử tại Trung Quốc   

Như đã phân tích trước đây, do những khác biệt trong cả 4 cơ sở hạ tầng chính phủ điện tử quốc gia (NeI) cũng như các chỉ số khác giữa Trung Quốc và các nước phát triển khác như Mỹ, thay vì áp dụng chiến lược chính phủ điện tử của Mỹ một cách trực tiếp, Trung Quốc nên áp dụng chiến lược phù hợp với hoàn cảnh của đất nước dựa trên các nhân tố đã được phân tích ở trên. Ví dụ như mô hình chiến lược chính phủ điện tử của Thượng Hải - trung tâm kinh tế của Trung Quốc - có thể trở thành hình mẫu cho các tỉnh thành khác học tập. Ba chiến lược triển khai chính phủ điện tử của Thượng Hải bao gồm: (1) nâng cao tính minh bạch trong các công việc của chính phủ, (2) mang lại sự tiện nghi và những dịch vụ tốt hơn cho người dân và doanh nghiệp và (3) thúc đẩy tính hiệu quả trong quản trị chính phủ.

          So với các nguyên tắc chiến lược của Mỹ trong triển khai chính phủ điện tử - “lấy người dân làm trung tâm”, “định hướng kết quả đầu ra” và “dựa trên nguyên lý thị trường” (e-Government Strategy, 2002, 2003), thành phố Thượng Hải đặt ra những mục tiêu chiến lược khá khác biệt. Mục đích cuối cùng của triển khai chính phủ điện tử có thể giống nhau, chính là cải thiện hoạt động và tính hiệu quả trong hoạt động của chính phủ cũng như thúc đẩy tương tác/hoạt động giữa chính phủ với cộng đồng và giữa chính phủ với khối doanh nghiệp tư nhân. Điểm khác biệt trong chiến lược chính phủ điện tử của thành phố Thượng Hải là “nâng cao tính minh bạch trong hoạt động của chính phủ”. Chính phủ điện tử được sử dụng như công cụ để thúc đẩy sự chuyển đổi và phù hợp của chính phủ. Thông qua chính phủ điện tử, quyền công dân được bảo đảm, giảm thiểu tình trạng hối lộ cũng như luật pháp và tính dân chủ được củng cố.

          Nhìn chung, triển khai chính phủ điện tử tại Trung Quốc có vai trò phục vụ mục tiêu phát triển kinh tế quốc gia, là hoàn tất quá trình chuyển đổi từ mô hình kinh tế kế hoạch hóa sang nền kinh tế thị trường. Những thay đổi về cơ cấu kinh tế này tất yếu sẽ có những tác động to lớn đến chiến lược và thực tiễn thực hiện chiến lược chính phủ điện tử. Ngược lại với Trung Quốc, nền kinh tế thị trường và hệ thống dân chủ của Mỹ có bề dày lịch sử. Hoạt động của chính phủ Mỹ cũng minh bạch hơn Trung Quốc rất nhiều. Vì thế, mục tiêu nâng cao tính minh bạch trong hoạt động của chính phủ Mỹ không đóng vai trò quan trọng như với Trung Quốc.

          Thực tế, nghiên cứu những thành công trong triển khai chiến lược chính phủ điện tử của các nước phát triển, Trung Quốc áp dụng một chiến lược chính phủ điện tử khác mang đặc trưng “do chính phủ dẫn dắt và liên kết với khu vực tư nhân”. Trong chiến lược này, các cơ quan quản lý nhà nước kết hợp với mọi nguồn lực có trong xã hội (một thành phố hoặc một tỉnh) để lãnh đạo quá trình triển khai chính phủ điện tử cũng như thiết lập quan hệ đối tác với khu vực tư nhân. Cho tới nay, quá trình triển khai chính phủ điện tử tại Trung Quốc đang ở giai đoạn thứ nhất, một số lĩnh vực đang ở giai đoạn thứ hai, ba và thậm chí đặc trưng của giai đoạn thứ tư có thể thấy được ở một số tỉnh thành có nền kinh tế phát triển. Trong khi đó, Mỹ đang ở giai đoạn thứ ba trong mô hình 5 giai đoạn (Hiller & Belanger, 2001), và đã đạt được một số thành tựu ban đầu. Chính phủ Trung Quốc nhận thức được rằng tốc độ phát triển internet nhanh chóng của Mỹ bắt nguồn từ hỗ trợ đầy hiệu quả trực tiếp từ chính phủ thông qua những chính sách về quân sự, giáo dục và cung ứng. Đây được coi là ví dụ điển hình và có nhiều ý nghĩa trong dẫn dắt quá trình phát triển chính phủ điện tử đối với chính phủ Trung Quốc.

          Vai trò chủ đạo của chính phủ Trung Quốc trên thực tế là phù hợp với những đặc điểm lịch sử văn hóa cũng như chỉ số Cơ sở hạ tầng chính phủ điện tử quốc gia (NeI) của Trung Quốc. Trên thực tế, chính phủ Trung Quốc có lẽ là thực thể duy nhất trong xã hội có đủ quyền lực và khả năng hợp tác với tất cả các tổ chức, cơ quan nhà nước và khu vực tư nhân có liên quan cũng như kết hợp tất cả các nguồn lực sẵn có để thực hiện có hiệu quả chính phủ điện tử. Chính phủ cũng là thực thể có nhiều kinh nghiệm thành công trong vai trò lãnh đạo công cuộc hiện đại hóa nền công nghiệp viễn thông lạc hậu trước kia. Đây được coi là minh chứng thành công gần đây nhất cho chiến lược can thiệp kinh tế của Trung Quốc. Cho đến giữa năm 2001, năng lực chuyển mạch công cộng của Trung Quốc đạt mức lớn nhất thế giới là 300 triệu vòng. Đây chính là kết quả của chương trình triển khai mạng lưới định hướng cung - cầu của chính phủ với tốc độ tăng trưởng hai con số trong suốt thập kỷ 90 thế kỷ trước (Lovelock & Ure, 2001).

          Ngân sách cho triển khai chính phủ điện tử ở cấp trung ương và địa phương chủ yếu đều do nhà nước cấp. Ví dụ như, ngân sách tối thiểu do chính phủ trung ương cấp ở mức hơn 120 triệu đô la Mỹ (Lovelock & Ure, 2001). Đến năm 1998, Trung Quốc đã thiết lập 145 trang web với tên miền gov.cn. Dựa trên báo cáo hàng năm của Trung tâm mạng lưới internet Trung Quốc (CNNIC), số lượng trang web có tên miền gov.cn hiện nay đã lên tới hơn 5864 trang.

          Chính phủ Trung Quốc đang đẩy nhanh tốc độ xây dựng cơ sở hạ tầng mạng nhằm tiến tới hoàn tất triển khai chính phủ điện tử vào năm 2005. Từ khi khởi động chương trình chính phủ điện tử đầu tiên với tên gọi “Bắc Kinh số hóa”, khi chính quyền thành phố Bắc Kinh sử dụng máy tính trong công việc hành chính và thực hiện giáo dục điện tử năm 1994, chính phủ Trung Quốc đã có nhiều bước tiến trong triển khai chính phủ điện tử. Ba mục tiêu xây dựng chính phủ điện tử bao gồm: xây dựng mạng lưới nội bộ trong xử lý các công việc của chính phủ các cấp và trang web kết nối, giao dịch, giải quyết các vấn đề với các doanh nghiệp, khu vực công và các cơ quan khác của chính phủ; thúc đẩy 12 ngành dịch vụ chính liên quan đến hải quan, thuế, an ninh công cộng, trật tự xã hội, nông nghiệp và nguồn nước; và thúc đẩy quá trình thiết lập ngân hàng dữ liệu quan trọng như các thông tin về dân số và nông nghiệp. Các dịch vụ hiện nay có trên các trang web chính phủ gồm giới thiệu chức năng/ngành nghề, các quyết định của chính phủ/các luật, bộ luật, tin tức chính phủ, thông tin thương mại/thông tin địa phương, hướng dẫn thủ tục làm việc…(Nguồn: Báo cáo điều tra 6 tháng/lần về Phát triển mạng lưới internet của Trung Quốc tháng 1/2002, Trung tâm mạng internet Trung Quốc).

          Dự án chính phủ trực tuyến (GOP) là minh chứng cho thấy sự hỗ trợ và vai trò chủ chốt của chính phủ trong phát triển chính phủ điện tử tại Trung Quốc. Dự án này gồm ba giai đoạn: giai đoạn 1 tập trung cho quá trình kết nối mạng cho 800 - 1000 văn phòng và cơ quan nhà nước, giai đoạn 2 ưu tiên chuyển đổi hệ thống thông tin sang dạng số, và giai đoạn 3 sẽ được triển khai trong những năm cuối thập kỷ 90 khi các văn phòng và cơ quan nhà nước phi giấy tờ trong các công việc hành chính.

          Mục tiêu của Dự án chính phủ trực tuyến là nhằm tạo ra hệ thống hành chính tiếp cận trung tâm có vai trò thu thập và chuyển dữ liệu giữa các bên sử dụng từ khu vực công cộng, doanh nghiệp hay các cơ quan chính phủ. Nói cách khác, chiến lược của chính phủ trong việc dẫn dắt “ngành công nghiệp thông tin” trước tiên là triển khai dự án chính phủ trực tuyến thông qua việc thiết lập các trang web chính phủ mà người dân có thể tiếp cận các dịch vụ và lấy được các thông tin cần thiết thông qua mạng internet. Sau đó, vấn đề quan tâm là hỗ trợ quá trình tự động hóa của các văn phòng, cơ quan chính phủ thông qua các trang web để hạn chế nạn quan liêu và cắt giảm chi phí phát sinh.

          Đến hết năm 2000, 80% các cơ quan nhà nước ở cấp trung ương và địa phương đều thiết lập trang web riêng. Một số ví dụ như:

- Ban kinh tế và thương mại nhà nước, Ủy ban hành chính thương mại nội địa

- Ủy ban khoa học công nghệ và Công nghiệp quốc phòng

- Văn phòng kiểm soát quản lý nhà nước về ngoại hối - Ban Hành chính hội nghị hiệp thương chính trị nhân dân Trung Quốc

- Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao

- Bộ Nông Nghiệp, Bộ Dân chính

- Bộ Ngoại giao, Bộ Ngoại thương và hợp tác kinh tế

- Bộ Công nghiệp và và công nghệ thông tin Trung Quốc, Bộ Tư pháp

- Bộ Lao động và an ninh xã hội, Bộ tài nguyên đất đai

- Tổng cục Hải dương quốc gia, Văn phòng quốc gia về quyền sở hữu trí tuệ

- Hội đồng xúc tiến thương mại quốc tế, Cơ quan vũ trụ quốc gia Trung Quốc

- Tổng cục hàng không dân dụng Trung Quốc

- Tổng cục hải quan

(Nguồn: Bộ công nghiệp và công nghệ thông tin Trung Quốc (MII) http://mii.gov.cn/mii/index.html)

          Trên đây chỉ là một số ví dụ cho các dự án triển khai chính phủ điện tử của Trung Quốc. Tuy nhiên, hiện nay hầu hết người dân Trung Quốc chưa thể nộp thuế, đăng ký bằng lái xe, thẻ căn cước, giấy chứng nhận cư trú thông qua các trang web của chính phủ, và quá trình phi giấy tờ trong các công việc hành chính còn cần nhiều thời gian triển khai.

          Các Bộ, ban, ngành và các cơ quan trong chính phủ Trung Quốc, như các chính phủ khác, thường khá chặt chẽ và tối mật trong hoạt động, do đó; vấn đề về mạng internet đôi khi động chạm tới quyền hạn và lợi ích của các cơ quan này. Như đã đề cập trước đây, Dự án chính phủ trực tuyến được triển khai từ đầu năm 1999. Hai giai đoạn tiếp theo của dự án đã được lên kế hoạch và sẽ được thực hiện trong tương lai gần. Trong đó, doanh nghiệp trực tuyến được cho là sẽ thúc đẩy các ngành công nghiệp tận dụng tối đa lợi ích của công nghệ mạng và góp phần nâng cao tính minh bạch trong hoạt động. Gia đình trực tuyếngiúp các gia đình tại Trung Quốc, trong đó có vùng nông thôn, nâng cao tỉ lệ sử dụng tài nguyên mạng, cũng như kéo người dân tới gần hơn với các nền tảng thông tin truyền thông mới của chính phủ.

          Tóm lại, Trung Quốc đã có sự phát triển kinh tế nhanh chóng trong những năm vừa qua, đồng thời nước này đang trong quá trình chuyển đổi sang hệ thống chính quyền và cơ chế kinh tế dân chủ và minh bạch, tron đó chính phủ điện tử là một mũi nhọn. Trung Quốc đã áp dụng chiến lược triển khai chính phủ điện tử hoàn toàn khác biệt so với Mỹ. Dựa trên những đặc điểm riêng về kinh tế, văn hóa, lịch sử, quá trình triển khai chính phủ điện tử tại Trung Quốc được dẫn dắt bởi nhà nước, chứ không phải bởi một lực lượng thị trường nào khác. Mặc dù con đường thực hiện chính phủ điện tử còn dài, Trung Quốc cũng đã đạt được một số kết quả rất đáng ngưỡng mộ.

THẢO LUẬN VÀ KẾT LUẬN

          Chủ để chính phủ điện tử đã được nhắc tới trong một số nghiên cứu trước đây (như của Carter & Belanger, 2005, Chircu & Lee, 2003; Glassey, 2001; Greunz, Schopp, & Haes, 2001; Huang, D’Ambra, & Bhalla, 2002; Wimmer, Traunmuller, & Lenk, 2001), nhưng hầu hết các nghiên cứu này được tiến hành trên góc độ của các nước phát triển. Dựa trên những khác biệt đáng kể, các nước đang phát triển khó có thể áp dụng chiến lược chính phủ điện tử của các nước phát triển. Vì thế, nghiên cứu này mong muốn khởi xướng những bước đi đầu tiên nhằm xóa bỏ những khác biệt này. Cụ thể, nghiên cứu này nghiên cứu so sánh các vấn đề chiến lược cũng như các bước triển khai chính phủ điện tử trên thực tế tại các nước phát triển và đang phát triển. Những vấn đề nghiên cứu đã giải quyết bao gồm:

- Đề xuất khung thực hiện bao gồm các yếu tố tác động đến triển khai chính phủ điện tử tại các nước phát triển và đang phát triển.

- Sử dụng tình huống cụ thể để mô tả cách áp dụng khung thực hiện để phân tích chiến lược chính phủ điện tử khác nhau tại nước phát triển (Mỹ) và đang phát triển (Trung Quốc).

          Do những khác biệt về các chỉ số Cơ sở hạ tầng chính phủ điện tử quốc gia (NeI) cũng như các vấn đề xã hội khác, các nước đang phát triển không thể áp dụng trực tiếp các chiến lược chính phủ điện tử của các nước phát triển. Khung thực hiện có cấu trúc và hướng dẫn rõ ràng cho các nước đang phát triển để xây dựng và triển khai chiến lược chính phủ điện tử phù hợp. Các nước đang phát triển cần phải xem xét tình hình cụ thể của nước mình dựa trên các chỉ số đã được chỉ rõ trong khung thực hiện và học hỏi kinh nghiệm của các nước khác để đề xuất chiến lược chính phủ điện tử phù hợp với điều kiện cụ thể của nước mình.

          Các nghiên cứu trong tương lai có thể cần được tiến hành nhằm thu thập các dữ liệu quốc gia tại các nước phát triển và đang phát triển, góp phần hoàn thiện khung thực hiện cũng như nghiên cứu sâu hơn mối quan hệ giữa các nhân tố dẫn tới thành công trong triển khai chiến lược chính phủ điện tử. Cụ thể hơn, các nhân tố này có thể được nghiên cứu để xếp hạng dựa trên tầm quan trọng đối với thực tế triển khai chính phủ điện tử thông qua các nghiên cứu điều tra. Mối quan hệ giữa các nhân tố ảnh hưởng tới chiến lược có thể được xác định thông qua phương pháp phân tích cấu trúc tuyến tính. Bằng cách này, các nhân tố dẫn tới thành công trong triển khai chiến lược chính phủ điện tử có thể được xác định và công nhận. Với những hướng dẫn trong khung thực hiện, chiến lược chính phủ điện tử và thực tế triển khai tại các nước đang phát triển có thể trở nên hiệu quả và tối ưu hơn.

 


 


 




Share Post




Một số bài viết khác

- Các yếu tố quyết định thành công cho hợp tác công – tư trong phát triển cơ sở hạ tầng (phần 2) - Biên dịch: Nguyễn Thị Ngọc Hà – Hiệu đính: Vũ Xuân Bình

- Các thành phố thông minh ở Châu Âu - Tác giả: Andrea Caragliu, Chiara Del Bo & Peter Nijkamp - Biên dịch: Nguyễn Thị Ngọc Hà - Hiệu đính: Trần Minh Hoàng

- Các yếu tố quyết định thành công cho hợp tác công – tư trong phát triển cơ sở hạ tầng (phần 1) - Biên dịch: Nguyễn Thị Ngọc Hà – Hiệu đính Vũ Xuân Bình

- Quản trị văn hóa và các ngành công nghiệp sáng tạo ở Singapore - Biên dịch: Nguyễn Thị Ngọc Hà – Hiệu đính: Nguyễn Thanh Bình

- Chiến lược chính phủ điện tử tại các nước phát triển và đang phát triển: Khung thực hiện và trường hợp thực tiễn (Phần 1) - Biên dịch: Nguyễn Thị Ngọc Hà - Hiệu đính: Vũ Xuân Bình

- Giao thông đô thị bền vững: Bốn khía cạnh đổi mới (Phần 2) - Tác giả: Todd Goldman & Roger Gorham - Biên dịch: Nguyễn Thị Ngọc Hà, Hiệu đính: Hồ Thị Tuyết Nhung

- Giao thông đô thị bền vững: Bốn khía cạnh đổi mới (Phần 1) - Tác giả: Todd Goldman & Roger Gorham - Biên dịch: Nguyễn Thị Ngọc Hà - Hiệu đính: Hồ Thị Tuyết Nhung

- Quản lý nguồn nhân lực với tư cách là quá trình tương tác xã hội - Tác giả: GS, TS. Safonov Kirill Borisovich - ThS. Nguyễn Thu Thủy dịch, ThS. Vũ Thị Xuân Mai hiệu đính